Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Toàn văn buổi thảo luận trên máy bay của Đức Thánh Cha với các phóng viên - tt

H: Trong suốt bốn ngày chúng ta nhìn thấy rất nhiều người trẻ cầu nguyện thật sốt sắng. Trong số đó, có lẽ có một số nào đó dự định đi theo đời sống tu trì. Nhưng có thể có người vẫn còn lưỡng lự vì họ nghĩ đó là một lựa chọn khó vì họ không được kết hôn. Liệu có thể nào Đức Thánh Cha sẽ cho phép những người kết hôn được trở thành linh mục trong Giáo hội Công giáo không?

TL: Trong nghi lễ Đông phương của Giáo hội Công giáo họ có thể làm như vậy. Lựa chọn đời độc thân được thực hiện trước chức phó tế. Trong nghi lễ Latinh tôi chợt nhớ lại lời của Thánh Phaolô VI: “Tôi thích hiến dâng đời mình trước khi thay đổi luật độc thân.” Đó là một câu nói đầy can đảm, trong một thời điểm còn khó khăn hơn lúc này. Đó là thời điểm những năm ‘68-’70. Cá nhân tôi nghĩ rằng đời sống độc thân là một món quà cho Giáo hội. Điểm thứ hai tôi nói rằng tôi không đồng ý cho phép đời sống độc thân là một lựa chọn — không. Nó chỉ là một khả năng có thể ở những nơi rất xa xôi. Tôi nghĩ đến những hòn đảo ngoài Thái Bình dương … Khi có nhu cầu mục vụ, người Mục tử phải nghĩ đến tín hữu. Có một quyển sách thú vị của Cha Lobinger (tên sẽ được xác minh) — đây là một điều đang được các nhà thần học thảo luận; nó vẫn chưa phải là quyết định của tôi. Quyết định của tôi là: tùy chọn đời sống độc thân trước chức phó tế: không. Đó là điều của riêng tôi; tôi không cho phép. Và điều này đã rõ ràng. Nó là ý nghĩ của riêng tôi. Tôi có khép kín quá không? Có thể. Tôi không nghĩ là mình phải trình diện trước mặt Chúa với quyết định này. Cha Lobinger nói rằng Giáo hội thực hiện Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thánh Thể làm nên Giáo hội. Cha Lobinger đặt câu hỏi: Ai thực hiện Bí tích Thánh Thể ở nhiều vị trí? Những người đứng đầu các cộng đoàn đó là các Phó tế và các Nữ tu hoặc chính các giáo dân. Và Cha Lobinger nói: một người đàn ông đã kết hôn lớn tuổi có thể được truyền chức; đó là luận án của ngài, nhưng chỉ có mình ngài thi hành munus santificandi, cụ thể là ngài cử hành Thánh Lễ, thi hành Bí tích Hòa giải và thực hiện việc Xức dầu <cho bệnh nhân>. Việc truyền chức linh mục trao cho ba munera: regendi, docendi và santificandi. Đức Giám mục chỉ trao cho ngài chứng nhận santificandi. Quyển sách rất thú vị. Và có thể nó giúp suy nghĩ về vấn đề. Liên quan đến vấn đề này, tôi tin là cần phải mở rộng đề tài: nơi có vấn đề về mục vụ vì thiếu linh mục. Tôi không nói là cần phải thực hiện, vì tôi vẫn chưa suy tư về nó, tôi vẫn chưa cầu nguyện đủ về việc này. Tuy nhiên, các nhà thần học phải nghiên cứu nó. Cha Lobinger là một linh mục fidei donum của Nam Phi. Bây giờ ngài đã già. Tôi có nói chuyện với một nhân viên của Phủ Quốc vụ khanh, một đức Giám mục, ngài đã phải hoạt động trong một quốc gia Cộng sản khi bắt đầu Cách mạng. Đó là thập niên 50. Các đức Giám mục lén lút truyền chức cho những người nông dân, đạo hạnh tốt. Rồi cuộc khủng hoảng đi qua, ba mươi năm sau, vấn đề được giải quyết. Và ngài kể cho tôi nghe cảm xúc của ngài trong một Lễ đồng tế ngài nhìn thấy những người nông dân này mặc áo chùng để đồng tế. Điều này đã xảy ra trong lịch sử Giáo hội. Đó là một vấn đề để nghiên cứu, để cân nhắc và cầu nguyện.”

H: Nhưng cũng có những thừa tác viên Tin lành đã kết hôn trở về Công giáo?

TL: Đúng vậy, Đức Benedict XVI đã thực hiện Anglicanorum Coetibus”: những thừa tác viên Anh giáo trở lại Công giáo và sống như trong các Giáo hội Đông phương. Tôi nhớ trong một buổi Tiếp Kiến chung tôi nhìn thấy nhiều vị với phụ nữ và trẻ em.

H: Trong buổi đi Chặng đàng Thánh giá đã có những lời rất mạnh về vấn đề phá thai. Những người cấp tiến có tôn trọng phụ nữ?

TL: Thông điệp lòng thương xót là cho tất cả, kể cả nhân vị hình thành trong thai. Sau khi phạm vào sa ngã này, cũng có lòng thương xót. Nhưng đó là một lòng thương xót khó khăn vì vấn đề không phải là tha thứ nhưng là đồng hành với một người nữ đã ý thức được về việc phá thai. Đó là những thảm kịch kinh hoàng. Có lần tôi nghe một bác sĩ nói về lý thuyết mà theo đó một tế bào của bào thai vừa được thụ thai đi đến tủy của người mẹ và ở đó nó cũng đón nhận một bộ nhớ vật lý. Đây là lý thuyết, nhưng nói về chuyện người phụ nữ suy nghĩ như thế nào về những gì cô ấy đã làm … Tôi nói thật với anh. Cần phải đi xưng tội, và ở đó anh phải cho cô ấy sự an ủi. Vì vậy, tôi đã cho quyền xá tội một vụ phá thai vì lòng thương xót, vì rất nhiều lần họ phải gặp đứa con. Nhiều lần tôi khuyên nhủ họ khi họ mang sự đau khổ này: “Con của chị đang ở trên Thiên đàng. Hãy nói với bé. Hãy hát cho bé nghe bài ru con mà chị đã không thể hát cho bé.” Và tôi tìm thấy có một cách để hòa giải giữa người mẹ với đứa con. Với Thiên Chúa thì đã có sự tha thứ; Chúa luôn luôn tha thứ. Nhưng lòng thương xót, anh phải nói thật chi tiết về vấn đề này. Để hiểu rõ về thảm kịch phá thai, người ta phải đến tòa cáo giải.

H: Trong những ngày này cha nói rằng cha cảm thấy rất gần gũi với người Venezuela, và hôm Chúa nhật cha kêu gọi “một giải pháp công bằng và hòa bình, tôn trọng nhân quyền.” Người Venezuela muốn biết điều này có nghĩa là gì. Sự công nhận đối với Juan Guaido, những cuộc bầu cử mới . . .? Người dân thấy rằng cha là một vị Giáo hoàng thuộc Mỹ Latinh và họ muốn nhận thấy được sự ủng hộ của người.

TL: Tôi ủng hộ tất cả người dân Venezuela. Nếu tôi bắt đầu nói rằng tôi quan tâm đến những quốc gia này hay quốc gia khác, là tôi đặt mình vào một vai trò mà tôi cũng không biết. Đó sẽ là một hành động mục vụ rất thiếu ý thức của tôi và tôi sẽ gây hại. Lời tôi đã nói đó là tôi suy đi nghĩ lại, tôi bày tỏ sự gần gũi và những gì tôi cảm nhận. Tôi gánh chịu tất cả những điều này. Chúng tôi đã không thành công trong việc tìm được một thỏa thuận (?) — một giải pháp công bằng và hòa bình. Việc đổ máu làm tôi lo sợ. Vì vậy, tôi xin những người, những ai có thể giúp giải quyết được vấn đề, thật tuyệt vời. Vấn đề bạo lực làm tôi kinh hoàng. Sau mọi nỗ lực được đưa ra ở Colombia, thì những gì xảy ra trong các trường cảnh sát đó thật kinh hoàng. Tôi là một Mục tử. Và nếu họ cần sự trợ giúp, họ phải đi đến được một thỏa thuận và xin điều đó.

H: Trong bữa ăn trưa với một nhóm người hành hương trẻ tuổi, một cô gái trẻ người Mỹ nói với chúng con rằng cô ấy đã hỏi cha về sự đau đớn và về sự tức giận của rất nhiều người Công giáo, đặc biệt ở Hoa Kỳ, vì cuộc khủng hoảng tình trạng lạm dụng tính dục. Nhiều người Công giáo Mỹ cầu nguyện cho Giáo hội, nhưng rất nhiều người cảm thấy bị phản bội và chán nản. Sau một số tin tức gần đây về những vụ lạm dụng và sự bao che về phía một vài giám mục, họ đã mất hết niềm tin vào các giám mục. Cha mong chờ và hy vọng những điều gì trong cuộc họp vào tháng Hai để Giáo hội có thể tái xây dựng niềm tin giữa tín hữu và các giám mục của họ?

TL: Thật thông minh; nó bắt đầu từ WYD và rồi đến đó. Xin chúc mừng. Cảm ơn anh về câu hỏi. Ý kiến về vấn đề này đã nổi lên trong các cuộc họp G9, vì ở đó chúng tôi đã nhìn thấy một số giám mục không hiểu rõ hoặc không biết phải làm thế nào và làm một điều tốt thì lại rơi vào một sai lầm khác, và chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm phải có một “lớp giáo lý” về vấn đề này cho các Hội đồng Giám mục. Đó là lý do tại sao họ được gọi là các chủ tịch. Một bài giáo lý bắt đầu trước hết là: có ý thức về thảm kịch, một thiếu niên bị lạm dụng là gì, và thiếu nữ bị lạm dụng là gì. Tôi có gặp những người thường xuyên bị lạm dụng. Tôi nhớ một người 40 tuổi không còn khả năng cầu nguyện. Điều này thật kinh khủng; sự đau đớn thật khủng khiếp. Trước tiên: các giám mục phải ý thức được điều này. Thứ hai: họ phải biết được họ phải làm gì — tiến trình, vì thường thường giám mục không biết nên làm gì. Một vấn đề đã phát triển rất lớn và không đến từ tất cả mọi góc cạnh, chúng ta cứ nói nó theo cách như vậy, và như vậy bắt buộc phải thực hiện một chương trình chung, nhưng nó phải đến được với tất cả các Hội đồng Giám mục. Giám mục phải làm gì, Tổng Giám mục phải làm gì, ai là Tổng Giám mục Chính tòa, Chủ tịch Hội đồng Giám mục phải làm gì. Như vậy là nó rõ ràng, chúng ta cứ nói theo các thuật ngữ hơi có tính pháp lý là với ý thức rằng đã có những dự thảo rất rõ ràng. Đây là vấn đề chính. Nhưng điều tôi nói đầu tiên đó là trước khi phải thực hiện một điều gì thì phải có ý thức về điều đó. Rồi có sự cầu nguyện; sẽ có một số chứng cứ để giúp làm cơ sở, và rồi có nghi thức sám hối để xin tha thứ cho toàn thể Giáo hội. Nhưng các ngài làm rất tốt trong công tác chuẩn bị này. Tôi cho phép mình nói rằng tôi đã một chút nhận thấy sự mong chờ hơi bị thổi phồng. Cần phải “xì hơi” bớt những mong chờ về những điểm mà tôi đã đề cập, vì vấn đề lạm dụng sẽ tiếp tục; nó là vấn đề của con người, mà con người ở khắp mọi nơi. Ngày kia tôi có đọc được một thống kê, có những thống kê nói rằng 50 phần trăm bị tố giác, 20 phần trăm được xử, và nó giảm nhẹ xuống. Nó kết thúc rằng: 5% bị kết án — thật kinh khủng. Nó là một vấn đề của con người và chúng ta phải ý thức về nó. Chúng ta cũng đang giải quyết vấn đề trong Giáo hội, phải ý thức. Chúng ta sẽ giúp giải quyết nó trong xã hội, trong các gia đình nơi mà sự xấu hổ làm người ta che giấu tất cả mọi thứ. Nhưng trước hết chúng ta phải ý thức về nó, phải có những dự thảo và tiến tới.

H: Trong WYD lần này cha nói rằng thật vô lý và vô trách nhiệm khi xem người di cư như là những người mang đến các tệ nạn xã hội. Ở Ý, những chính sách mới về người di cư đã dẫn đến việc đóng cửa CARA [Trung tâm Tiếp nhận người Tị nạn] ở Castelnuovo di Porto, việc này cha biết rất rõ. Nó đã là một nơi mà người ta nhìn thấy sự hội nhập: trẻ em đến trường học, và bây giờ người ta lại có nguy cơ bị buộc phải rời đi. Cha đã chọn rửa chân cho họ Thứ Năm Tuần Thánh năm 2016. Con xin hỏi cha có bằng chứng nào liên quan đến việc đóng cửa CARA của Castelnuovo di Porto không?

ĐTC: Tôi không hiểu câu hỏi. Có phải là việc quyết định làm gì đó không?

H: … đóng cửa CARA của Castelnuovo di Porto nơi cha đã đến rửa chân ngày thứ Năm Tuần Thánh năm 2016 và bây giờ có nguy cơ giải tán nơi đó …

ĐTC: Tôi có nghe tin đồn này nọ về những gì đang xảy ra ở Ý nhưng tôi chăm chú vào WYD lần này, nên sự thật là tôi không nắm rõ mọi việc. Nhưng tôi hình dung, tôi hình dung ra được. Đúng là vấn đề của người di cư là một vấn đề rất phức tạp, một vấn đề gợi lại ký ức, hỏi bản thân thử xem quê hương của tôi có những người nhập cư không. Tất cả người Argentina chúng tôi là người di cư; người Mỹ đều là người di cư. Một đức Giám mục, một Hồng y, tôi không nhớ vị nào đó đã viết một bài rất hay: nó có tên là “Vấn đề Thiếu Ký Ức.” Từ ngữ mà tôi sử dụng là … đón nhận, một tâm hồn rộng mở để đón nhận, chào đón, đồng hành, làm cho họ phát triển và hội nhập. Và tôi cũng nói rằng người lãnh đạo phải sử dụng sự cẩn trọng vì tính cẩn trọng là đức tính của người lãnh đạo. Tôi đã nói điều này ở đây trên chuyến bay lần trước. Nó là một sự cân bằng khó khăn. Tôi chợt nhớ đến ví dụ của Thụy điển vào những năm 70, với những nhà độc tài của Mỹ Latinh, đã đón nhận rất nhiều, rất nhiều người di cư, nhưng tất cả đều được hội nhập. Chẳng hạn tôi cũng nhìn thấy cách làm của Sant’Egidio. Nhưng năm ngoái Thụy điển nói rằng họ ngưng lại một chút vì chúng tôi không thể đón nhận hết được dòng người và đây là sự cẩn trọng của nhà lãnh đạo. Nó là vấn đề của bác ái, của yêu thương, của tình liên đới và tôi khẳng định rằng hầu hết các quốc gia đều đại lượng trong việc tiếp nhận người di cư — những nước khác thì chưa thành công lắm trong cách làm như vậy. Ý và Hy Lạp, cả Thổ Nhĩ kỳ tới một mức độ nào đó. Nhưng Hy lạp là quảng đại nhất và Ý rất quảng đại. Khi tôi đến Lampedusa, nó mới chỉ là bắt đầu … Tuy nhiên, sự thật là người ta phải suy nghĩ thực tế. Rồi có một vấn đề quan trọng khác phải cân nhắc: cách giải quyết vấn đề di cư đó là giúp các quốc gia quê hương nơi người ta bỏ đi. Người di cư ra đi vì nạn đói hoặc vì chiến tranh. Hãy đầu tư nơi nào có nạn đói và Châu Âu đủ khả năng để làm việc này, và đó là một cách. Giúp phát triển nhưng luôn luôn có hình ảnh chung, nói về Châu Phi, mà chúng ta đều có trong vô thức: Châu Phi bị bóc lột. Đây là lịch sử và nó phá hại. Người di cư của Trung Đông tìm những con đường để ra đi. Li-băng là một quốc gia quảng đại phi thường: nước này có đến hơn một triệu người Syria. Jordan cũng tương tự như vậy, rất cởi mở; họ làm những gì họ có thể. Và Thổ Nhĩ kỳ cũng đón nhận một số và chúng ta ở Ý cũng đón nhận một số. Nhưng đó là vấn đề rất phức tạp, và phải gạt bỏ mọi thành kiến để nói về nó. Tất cả những điều suy xét này chợt hiện lên trong đầu tôi.

Gisotti: Xin cảm ơn Đức Thánh Cha, bây giờ mời mọi người dùng bữa tối và chúc chuyến đi tốt đẹp. Trong một tuần lễ nữa, chúng ta lại gặp nhau trong một chuyến đi rất quan trọng khác, vì vậy …

ĐTC: Cảm ơn anh chị em rất nhiều về công việc. Tôi chỉ muốn nói một điều về Panama. Tôi cảm nhận một cảm xúc mới. Tôi biết Châu Mỹ Latinh nhưng … không phải là Panama và từ ngữ này hiện lên trong tôi: Panama là một quốc gia cao quý, tôi tìm thấy tính thanh cao ở đó. Tôi muốn nói lên điều này. Và tôi muốn nói thêm điều khác, điều mà tôi cũng đã nói khi tôi trở về từ Colombia. Nói về kinh nghiệm của Cartagena và những thành phố khác: một điều gì đó mà chúng ta không nhìn thấy ở Châu Âu. Niềm tự hào của người Panama trong trường hợp này là gì? Đó là họ nâng cao những đứa con của họ và nói rằng đây là vinh quang của tôi, đây là tương lai của tôi, đây là niềm tự hào của tôi. Nó là mùa đông nhân khẩu học mà chúng ta đang phải trải qua ở Châu Âu — ở Ý … dưới 0 độ! Nó khiến chúng ta phải suy nghĩ. Niềm tự hào của tôi là gì? Nó có phải là việc du lịch, một căn biệt thự, một con chó con? Hay tôi có nâng đứa con của tôi lên? Cảm ơn anh chị em! Hãy cầu nguyện cho tôi, tôi cần điều đó. Cảm ơn anh chị em!

© Libreria Editrice Vatican

Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester

[Nguồn: zenit]

Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN

410    15-02-2019