Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Đối Tượng Của Nền Giáo Dục Kitô Giáo - Tháng 05 năm 2008

CHỦ ĐỀ: ĐỐI TƯỢNG CỦA NỀN GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

THƠ MỤC TỬ THÁNG 05/2008  
TÒA GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2 Vĩnh Long  

Vĩnh Long, ngày 30.4.2008  

V/v Đối Tượng của Giáo Dục Kitô Giáo  

Ngỏ lời với các Tín Hữu Roma ngày 21.1.2008, Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã nói: Cha đã có ý định gởi đến chúng con lá thư nầy để nói về một vấn đề mà chính chúng con cũng nhận thấy, và nhiều thành phần khác nhau trong Giáo Hội đã tích cực dấn thân vào: Đó là vấn đề GIÁO DỤC. Tất cả chúng ta đều mang trong tim mình sự thiện hảo của những người mà chúng ta yêu mến, đặc biệt là CÁC THIẾU NHI, CÁC THIẾU NIÊN và CÁC BẠN TRẺ của chúng ta… Chúng ta không thể không lưu tâm đến việc đào tạo những thế hệ trẻ, đến khả năng định hướng trong đời sống của họ, đến khả năng phân biệt điều thiện với điều ác, đến sức khoẻûthể lý cũng như tinh thần của họ’.  
Như thế, Đức Thánh Cha muốn nói rằng đối tượng cần được quan tâm đào tạo đặc biệt  là những thế hệ trẻ (các Thiếu Nhi, các Thiếu Niên và các Bạn Trẻ).  

Nhưng
tại sao phải quan tâm đặc biệt đến các thế hệ trẻ ?  
Có thể nói rằng việc giáo dục các thế hệ trẻ là quyền của gia đình, của những người làm cha làm mẹ, là những người được Thiên Chúa trao phó những sinh mạng để nuôi dạy, chăm sóc và khi đào tạo con cái nên người, sẽ tìm thấy hạnh phúc . Và những phụ huynh lại cần đến sự giúp đỡ của xã hội có trách nhiệm lo cho công bằng và công ích. Thực tế nhiều khi gia đình cũng như xã hội không chu toàn trách nhiệm của mình. Gia đình thiếu hợp nhất, sống chật vật, không quan tâm dạy bảo con cái. Xã hội chẳng những không bổ trợ những khiếm khuyết của Gia đình, mà lắm  khi còn lấn át quyền của các Gia đình, dung túng hoặc làm ngơ trước những tệ nạn. .  Tình trạng trẻ em lao động, trẻ em đường phố dễ bị lôi cuống vào băng đảng xã hội đen  là tiếng báo động nguy cơ suy thoái xã hội.  

Sứ mạng giáo dục những thế hệ trẻ có tính cách cấp bách, đòi buộc những ai có trách nhiệm phải quan tâm đặc biệt, không được thoái thác.  Giáo dục chẳng bao giờ là công việc dễ dàng, va nó càng trở nên khó khăn hơn trong thời đại hôm nay.  


Làm thế nào để việc giáo dục được Thật sự hữu ích ?
 
1. Công tác giáo dục phải đặt nền tảng trên sự tôn trọng con người, ‘bao quát toàn diện con người và quy về con người một cách đặc biệt’, ‘con người trong thực tại làm người có một không hai, không thể sao chép và còn giữ nguyên hình ảnh của Thiên Chúa, là thụ tạo độc nhất trên mặt đất đã được Thiên Chúa muốn cho có vì chính họ’ (Vat.Gaudium et Spes,24).  

2. Giáo dục phải nhằm tạo cho các thế hệ trẻ biết
sử dụng đúng tự do:’Chẳng nghi ngờ gì nữa, chúng ta đi vào điểm tế nhị nhất của việc giáo dục, đó là tìm được quân bình đúng đắn giữa tự do và kỷ luật. Không có qui tắc cư xử và qui luật sống, được làm sáng tỏ ngày qua ngày ngay trong những điều nhỏ nhất, người ta sẽ không rèn luyện được nghị lực và không được trang bị để đối diện với những thử thách đầy dẫy ở tương lai… Chúng ta phải chấp nhận nguy cơ của tự do, bằng cách luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn trẻ sửa lại những ý tưởng và những chọn lựa sai lầm. Điều chúng ta không bao giờ nên làm, là tán trợ trong những sai lầm, hoặc giả vờ không thấy, hoặc tồi tệ hơn nữa là tán đồng những sai lầm ’ (Bênêđitô XVI, Thư ngỏ,1.2008).  

3. Trong việc giáo dục không thể bỏ qua yếu tố
thẩm quyền luân lý, một thẩm quyền làm cho việc thực thi những tương quan quyền bính trở nên đáng tin :’ Nhà giáo dục là chứng tá của sự thật và sự thiện. Chắc chắn chính bản thân họ cũng mỏng giòn và có thể sai lầm, nhưng họ phải luôn tìm cách sống hòa hợp với sứ mạng của mình’(Bênêđitô XVI, như trên).  

4. 
Ý thức trách nhiệm . Trách nhiệm giữ vai trò quyết định trong việc giáo dục : ‘Trước hết là trách nhiệm của nhà giáo dục, rồi trách nhiệm của người con, của người học trò theo mức độ tăng trưởng với tuổi tác. Ai biết trả lẽ với chính mình và với người khác, là người có trách nhiệm. Hơn nữa, ai có lòng tin, thì trước tiên  lo liệu để trả lẽ cho Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương họ trước’ (Bênêđitô XVI, như trên).  

5.
Sự gần gũi và lòng tin tưởng phát xuất từ tình yêu.Kinh nghiệm đầu tiên và vă căn bản của tình yêu mà con trẻ có được,  hoặc phải có , với cha mẹ chúng  dó là sự gần gũi và tin tưởng. Ngược lại, mọi nhà giáo dục chân chình đều biết rằng mình phải trao ban điều gì đó của chính mình, để rồi mới có thể giúp các học sinh của mình lướt thắng tính ích kỷ, và đến lượt chúng ,  cũng có khả năng yêu thương đích thực’ (Benêđitô XVI, như trên)

Thực tế có thể làm cho chúng ta thất vọng ( tình trạng các con cái ngỗ nghịch,  hư hỏng, quá nhiều thách đố và những cám dỗ lôi kéo nhiều thế hệ trẻ sống thác loạn ), Đức Thánh Cha nhắc đến sự cần thiết của
niềm hy vọng : chỉ có niềm hy vọng đáng tin mới có thể là linh hồn, là súc sống cho việc giáo dục. ‘Hãy đặt niềm hy vọng của chúng ta nơi Thiên Chúa. Chỉ có Ngài là hy vọng vượt thắng mọi nỗi thất vọng; chỉ có tình yêu của Chúai là không thể bị hủy diệt bởi sự chết; chỉ có công lý và lòng thương xót của Chúa mới có thể khỏa lấp ( băng bó thương tích của) những bất công và xoa dịu những thống khổ chúng ta phải chịu ’( Bênêđitô XVI, như trên).  
 

+ Tôma Nguyễn Văn Tân

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long  

CHỦ ĐỀ: ĐỐI TƯỢNG CỦA NỀN GIÁO DỤC KITÔ GIÁO  

I. THƯ MỤC VỤ SỐ 22, 23, 24, 25  

22. Tính phổ cập của nền giáo dục Kitô giáo một mặt không miễn trừ trách nhiệm cho bất kỳ ai, một mặt cũng đòi buộc Kitô hữu không được loại trừ bất kỳ đối tượng nào. Muốn thế, Kitô hữu cần quan tâm hơn đến những thành phần thường bị xã hội ruồng rẫy, khinh miệt, lãng quên : người thất học, trẻ em không có điều kiện đến trường, thành phần cô lập do mặc cảm hay bị kỳ thị. Chúa Giêsu khẳng định rằng sứ mệnh hàng đầu của Ngài là loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, lao tù, mù lòa, bị áp bức (Lc 4, 18ss).  


23…Cha xứ và giáo xứ địa phương cũng cần phải sẵn lòng nâng đỡ, chia sẻ, đón tiếp di dân, tạo điều kiện để họ sớm hội nhập vào các sinh họat đạo đức và văn hóa nơi họ sinh sống….

 
24. Thiếu nhi và giới trẻ cũng là những thành phần rất đáng quan tâm ở hàng ưu tiên Thiếu nhi, những trang giấy trắng đang chờ in những hình ảnh tươi đẹp, cần phải được thụ hưởng một nền giáo dục chân chính về nội dung và hiệu quả về phương pháp, làm vốn liếng hành trang hữu ích cho suốt cuộc hành trình làm người và đức tin.  

25. Giới trẻ, “tương lai của Giáo Hội và thế giới” (HT/VH 38), cần phải nhận được sự hướng dẫn tận tình từ các nhà giáo dục và các thế hệ đi trước để nhiệt huyết tuổi trẻ của họ thực sự được vận dụng vào công cuộc xây dựng xã hội và Giáo Hội.  


II. DẪN GIẢI

Đối tượng phổ quát: Dốt tất cả, phải học tất cả, tất nhiên phải dạy. Đó là đối tượng phổ quát.

Do đó, mọi người đều có nhiệm vụ giáo dục.

Cần phải lưu tâm đến giới bị bỏ rơi.

Gương Chúa Giêsu: Loan báo Tin mừng – Giáo dục, sứ mạng hàng đầu.

III. CHUYỆN MINH HOẠ  

ĐIỀU QUÝ NHẤT CỦA CUỘC  ĐỜI  

Tại một làng chài nọ, có một chàng thanh niên hiền lành và tốt bụng, làm việc rất chăm chỉ. Ngày nọ, trên đường về nhà, chàng lượm được một cái chai nhỏ. Vì tò mò, chàng tìm cách tháo bằng được nắp chai ra. Bất ngờ từ trong chai bay ra một làn khói trắng và vị thần khổng lồ xuất hiện.  

Vị thần liền cất tiếng nói: “Đừng sợ! Ngươi là ân nhân của ta, ta cho ngươi ba điều ước. Nào! Hãy ước đi hỡi chàng trẻ tuổi”. Ước gì nhỉ? Chàng đắn đo và trả lời: “Thần cho tôi thời gian để suy nghĩ nhé!”.


- Được thôi. Từ đây đến chiều ngươi phải nghĩ ra đấy.  

Chàng đi dọc theo bãi biển và suy nghĩ. Trên đường đi chàng gặp một đám trẻ con hồn nhiên, vô tư chơi đùa say mê. Nhìn những gương mặt thiên thần, chàng thấy cuộc đời mới đẹp làm sao. Đi tiếp, chàng gặp một chàng trai trẻ liều mình cứu những người nghèo khổ thoát khỏi một nhóm trộm cướp. Tấm lòng nghĩa hiệp đó khiến chàng khâm phục. Chàng lại tiếp tục đi và thấy một đám đonâg vây quanh một cụ già. Thì ra có một con cá voi mắc cạn trôi dạt vào bờ. Mọi người định giết nó để lấy thịt bán. Cụ già nói: “Những gì thuộc về biển cả hãy trả về cho biển cả”. Thế là chú cá voi được cứu sống.  

Hoàng hôn buông xuống. Vị thần hiện ra hỏi: “Ngươi đã nghĩ ra chưa?”. Chàng trai trả lời: “Vâng, xin thần hãy ban cho tôi sự ngây thơ, hồn nhiên của trẻ thơ; một trái tim nghĩa hiệp, dũng cảm của tuổi trẻ và một tấm lòng nhân ái, vị tha của người từng trải”.  


Vị thần nói: “Hỡi chàng trai, ngươi làm ta bất ngờ đấy, bởi vì ngươi đã nhận ra những thứ quí giá nhất của cuộc đời”.  


Cuộc đời này có nhiều điều đáng mơ ước lắm, nhưng điều quan trọng là chúng ta chọn lấy điều gì có giá trị lâu dài chứ đừng chọn lựa những thứ chóng qua, hào nhoáng bên ngoài. Những thứ đáng quí nhất của cuộc đời con người chính là những nhân đức. Nhân đức của con người được sánh ví như vàng ròng vậy. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng và tìm cách tích luỹ thật nhiều những nhân đức cho mình. Đó là những thứ quí giá nhất của cuộc đời chóng qua này.


(Theo Internet)  


Muốn được như vậy, mọi người đều cần có được một nền giáo dục tốt để phát triển nhân cách một cách trọn vẹn. Từ nhu cầu chính đáng đó, tất caả mọi người đều được mời gọi đóng góp vào việc giúp đỡ cộng đồng phát triển theo khả năng của mình.  

IV. DIỄN GIẢI  

Triển khai phần dẫn giải của Đức Cha Giacôbê giải thích Thư Mục Vụ, chúng ta thấy đối tượng của việc giáo dục nhắm đến tất cả mọi người, không loại trừ một ai, đặc biệt là những người đang  bị thiệt thòi và thiếu điều kiện để phát triển nhất trong xã hội. Đồng thời tính phổ cập của việc giáo dục cũng không loại trừ bất cứ ai: mọi người đều có trách nhiệm góp phần vào việc giáo dục con người.


Quyền được hưởng một nền giáo dục xứng hợp
 
Là hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa cứu chuộc, mọi người đều có quyền hưởng một nền giáo dục đầy đủ và xứng hợp với thiên chức làm người và làm con Thiên Chúa của mình: “Tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giai cấp và tuổi tác, do phẩm giá con người, đều có một quyền bất khả nhượng là phải được hưởng một nền giáo dục, đáp ứng với sứ mệnh riêng, phù hợp với cá tính, của từng phái, thích nghi với văn hóa và truyền thống dân tộc, đồng thời mở rộng sự hợp tác huynh đệ với các dân tộc khác, để hỗ trợ công cuộc hợp nhất chân chính và hòa bình trên mặt đất.” (Tuyên Ngôn Về Giáo Dục, số 5-12).  

Mục đích của việc  giáo dục là giúp  phát triển con người toàn diện, thể xác cũng như tinh thần, nhất là giúp cho người trẻ có khả năng xét đoán những giá trị luân lý theo lương tâm ngay chính, sống có trách nhiệm và có tinh thần cộng đồng…  


Giáo Luật, 795 cũng nói đến vai trò giáo dục nhằm đến tất cả mọi người: “
Việc giáo dục chân chính phải nhằmmục đích đào tạo toàn diện con người và đồng thời phải hướng về mục đích tối hậu của con người cũng như lợi ích chung của xã hội, cho nên các trẻ em và các thanh thiếu niên phải được đào tạo thế nào để họ có thể phát triển cách hài hoà những tài năng thể lý, luân lý và trí tuệ của mình, để họ có được một ý thức hoàn hảo hơn về trách nhiệm và biết sử dụng đúng đắn sự tự do của mình, và để họ trở thành những người có khả năng tham gia tích cực vào đời sống xã hội.”   

Nền giáo dục Kitô giáo
 
Mọi Kitô hữu đều có quyền được hưởng một nền giáo dục Kitô giáo, không chỉ để trưởng thành trong nhân cách, nhưng cốt yếu là để giúp họ ý thức hơn về hồng ân đức tin mà họ đã lãnh nhận, nhờ đó mà được rỗi; đồng thời đến phiên mình, họ cũng lãnh nhận trách nhiệm cải tạo xã hội theo tinh thần Kitô giáo.  

Nhiệm vụ giáo dục
 
Có ba định chế xã hội cơ bản
, khác biệt nhau nhưng hoà hợp với nhau,  góp phần vào công cuộc giáo dục con người, mà hai trong số đó thuộc lãnh vực tự nhiên là gia đình và xã hội; định chế còn lại thuộc lãnh vực siêu nhiên là Hội Thánh.  Cha mẹ thông truyền sự sống cho con cái, nên trách nhiệm giáo dục gắn liền với thiên chức của mình. Thứ đến, Hội Thánh, vừa là xã hội trần gian, nhưng đồng thời là bí tích cứu rỗi, có nhiệm vụ loan truyền cho mọi người nhận biết con đường cứu rỗi và thông ban sự sống Chúa Kitô cho các tin hữu, nên Mẹ Hội Thánh có nhiệm vụ bảo đãm cho con cái mình một nền giáo dục Kitô giáo, cùng với việc cổ võ xây dựng  một xã hội trần thế tốt đẹp hơn, nhân đạo hơn. Cuối cùng, xã hội dân sự hay quốc gia có đủ điều kiện và trách nhiệm bảo vệ lợi ích chung cho cộng đồng. Xét theo góc độ nầy thì quốc gia dùng quyền hạn chính đáng của mình để đạt mục đích chung cho toàn xã hội qua việc phát triển giáo dục…
(x. ĐTC Piô XI, Divini Illius Magistri, 1929, n. 3,4,9,14)  

Những đối tượng đặc biệt cần được quan tâm
 
Thư Mục Vụ đặc biệt quan tâm: “…đến những thành phần thường bị xã hội ruồng rẫy, khinh miệt, lãng quên : người thất học, trẻ em không có điều kiện đến trường, thành phần cô lập do mặc cảm hay bị kỳ thị…những người di dân, thiếu nhi và giới trẻ”. Việc giáo dục cho những đối tượng nầy, theo phương châm của Thánh Don Boscô, chính là đào tạo họ thành “những công dân liêm chính, và những Kitô hữu tốt”. Giáo dục Kitô giáo nhằm giúp phát triển con người toàn diện, mở rộng tầm nhìn và con tim để giúp họ không co cụm trong chính mình, nhưng hướng về Thiên Chúa, về anh em và về cả nhân loại. Được như vậy, người tín hữu sẽ trở thành những con người mới trong Chúa Kitô, gắn bó với Thiên Chúa và với anh em, đặc biệt là những người nghèo.  

Hội Thánh là “Mẹ và là Thầy”. Được sự quan tâm chỉ dạy của Hội Thánh là hạnh phúc của mỗi người chúng ta, đồng thời cũng là trách nhiệm của mỗi người cùng với Hội Thánh giúp  đưa dẫn những người khác đến với Thiên Chúa  là Cha yêu thương.


  KIỂM ĐIỂM  

Có nhận định: hễ là người là phải có phận sự giáo dục.

Dù không có khả năng nhưng cần nhận biết mình có phận sự đóng góp vào sự nghiệp giáo dục.

Dù không nói được, không diễn tả được như mong ước, nhưng đời sống phải gương mẫu: verba volent, exempla trahunt (lời nói bay đi, gương lành lôi kéo).

Nguyên đán là ngày quy tụ gia tộc là ngày truyền thống, lưu lại cho con cháu những truyền thống tốt, những đức hạnh tốt. Nói được đó  là ngày truyền thống giáo dục.

V. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN  

Kêu mời:
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể, nhập thế để rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho trần gian. Ngài trao cho các Kitô-hữu sứ mạng loan báo Tin Mừng. Do bí tích Rửa Tội, mỗi tín hữu đều phải được giáo dục và giáo dục Kitô-giáo. Chúng ta cùng cầu nguyện:  

  1. Chúa phán: “Các con hãy đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi thọ tạo”. Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu, vừa đón nhận nền giáo dục Kitô-giáo, vừa có bổn phận làm cho mọi tạo vật thấm nhuần đạo lý Kitô-giáo.

  2. Chúa phán: “Những điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”. Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu, vừa tâm đắc các giá trị của nền giáo dục Kitô-giáo, vừa làm chứng cho mọi người hiểu và lãnh hội được các giá trị ấy

  3. Chúa phán: “Một thành phố được xây dựng trên núi không thể che giấu được”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, tích cực xây dựng Hội Thánh, bằng cách phát triển nền giáo dục Kitô-giáo, khắp mọi nơi và mọi thời.

  4. Chúa phán: “Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến, Người sẽ nhắc nhở các con mọi điều”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà phát triển nền giáo dục Kitô-giáo

Kết thúc : Lạy Chúa, Chúa ban Ngôi Lời Chúa giáo dục trần gian. Xin Chúa lại ban Thánh Thần Chúa an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, hầu loan truyền văn hoá sự sống cho mọi người được hưởng phước nước Thiên đàng. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.    
VI. ÁP DỤNG THỰC HÀNH  

CON NGƯỜI TRUNG TÂM CỦA MỌI NỀN GIÁO DỤC


Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI trong lần tiếp kiến các thành viên tham dự Hội Nghị Nghiên Cứu Văn Hóa do Hội Đồng Giáo Hoàng Về Văn Hóa đã nói “Giáo Hội luôn đặt con người là trung tâm và là diễn viên của mọi nền văn hóa”. Qua đó, Đức Thánh Cha cho thấy tầm quan trọng của việc giáo dục con người trong thế giới hôm nay. Thế giới ngày mai có xinh đẹp, có phồn thịnh, có hạnh phúc… là do sự cộng tác và xây đắp của thế giới hôm nay, Giáo hội ngày mai có được rộng mở, có được phát triển cũng là do sự đóng góp của những con người của thế hệ hôm nay. Vậy con người ngày hôm nay họ cần gì, và Giáo hội có thể cộng tác gì trong việc giáo dục con người hôm nay để họ có thể trở thành những người có ích cho xã hội và giáo hội ngày mai.

Trước hết, khi nói về giáo dục cần phải xác định rõ đối tượng của nền giáo dục: Giáo dục ai? Dùng phương pháp nào để giáo dục? Và giáo dục về những khía cạnh nào?...


Khi nói như thế ta sẽ thấy rõ ngay là: Giáo dục là giáo dục cho con người với những nguồn gốc văn hóa, tâm linh, điều kiện xã hội, trình độ học thức… khác nhau. Giáo hội có sứ mạng giáo dục nhưng không thể khư khư giữ lấy những nguyên tắc “cứng ngắc” của Giáo hội tiên khởi hay Giáo hội của một thời nào mà áp dụng cho mình để giáo dục cho con người ngày nay.


Nên nhớ rằng: con người được sinh ra trong một gia đình, trong một xã hội có những điều kiện văn hóa nhất định của vùng miền,… đòi hỏi các nhà giáo dục phải hết sức thận trọng trong việc giáo dục. Mỗi vùng miền có những lề thói riêng, có những tâm tính riêng đòi hỏi nhà giáo dục phải quan tâm tìm hiểu trước khi thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Giáo dục con người trở thành con Chúa cũng thế: những chân lý đức tin có thể sẽ trở thành khô cứng nếu nhà giáo dục cứ mãi khư khư với từng từ, từng chữ mà không có chút hội nhập nào trong việc truyền bá đức tin. Chân lý đức tin là muôn thưở nhưng có thể được trình bày một cách nhẹ nhàng hơn, uyển chuyển hơn nếu nhà giáo dục xác tín chân lý đức tin nơi bản thân  mình và hiểu được văn hóa của những người mà mình có trách nhiệm giáo dục.


Nhìn vào điều kiện xã hội ngày này, chúng ta thấy được rằng: con người mỗi ngày mỗi gần nhau hơn, mỗi ngày mỗi tiếp cận thông tin nhanh hơn, phong phú hơn nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại. Nên lối giáo dục theo kiểu “dạ - vâng” không còn thích hợp nữa mà phải có lối giáo dục mới, cung cấp thông tin, cung cấp dữ liệu cho con người để họ nhận định đánh giá mà chấp nhận hay từ chối. Có lẽ việc này ai cũng có thể biết nhưng trong thực hiện có nhiều lý do: có thể là chưa quen, có thể là mất thời gian, … làm cho cách giáo dục của Giáo hội vẫn còn nặng hình thức “trên bảo, dưới nghe”.  


Mặt khác, với thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì việc cung cấp thông tin, truyền giảng chân lý không còn là phương cách hữu hiệu duy nhất để rao giảng Tin Mừng mà đòi hỏi nhà giáo dục, nhà truyền giáo phải sống chứng ta Tin Mừng mình rao giảng. Bởi
“con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy” (Tông huấn GHAC 42) nên những người có trách nhiệm giáo dục Kitô giáo cần phải nổ lực trui rèn mình không những trong các chân lý đức tin của Giáo hội mà còn phải năng tìm hiều các nền văn hóa, những yếu tố địa lý chi phối các vùng miền… để có thể trình bày chân lý một cách hiệu quả hơn.  

Con người là đỉnh cao của công cuộc tạo dựng và cứu chuộc, con người cũng là trung tâm của công tác giáo dục. Con người có tốt, có văn minh, có tri thức thì xã hội mới phát triển. Con người có niềm tin, có một nền đạo đức chính đáng thì xã hội mới an bình, con người có tin tưởng vào Chúa, đón nhận chân lý mạc khải, sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa thì thiên đàng thật sự đã bắt đầu từ thế giới nầy.   

VII. HỌC HỎI KINH THÁNH  

BÀI 29: TỘI VÀ PHÚC CỦA ĐAVIT
(2Sam 11-12)

Sau khi dời kinh đô về Giêrusalem, Đavit đã kiệu Hòm Bia từ Balaah (2Sam 6, 2) về Giêrusalem. Trên đường đi ông đã nhảy múa, hát mừng, chúc tụng Giavê như một tên nô lệ. Thái độ nầy đã làm vui lòng Thiên Chúa Giavê và được Thiên Chúa chúc phúc.

1/ Trọng tội của Đavit là gì? Và thái độ của ông ra sao khi đứng trước hành vi sai lỗi nầy?  


Trọng tội của Đavit là đã chiếm đoạt bà Bếtsabê, vợ của Uria. Ông đã phạm tội ngoại tình kèm theo tội mu?n guom kẻ thù giết tướng của mình, khi đưa Uria vào chỗ giao tranh ác liệt nhất rồi cho binh sĩ tháo lui, khiến Uria phải tử trận (2 Sam 11, 11-21). Trước lời cảnh tỉnh của tiên tri Na-than, Đavit đã đáp trả cách chân tình: “Tôi đắc tội với Đức Chúa” (2 Sam 12, 13).  


2/ Tại sao Đavit phạm tội thì được Chúa tha thứ, còn Saulê thì không được tha?  


Chúa tha cho Đavit vì ông biết ăn năn sám hối cách thật lòng (
Chúa phạt ông khi để cho đứa con trai ông chết, ông đã không khóc mà đã chổi dậy tắm rửa và đi ăn uông, mặc dấu trước đó ông đã van xin Chúa đừng để đứa bé chết. Giống như đứa con biết lỗi trước mặt cha mẹ, bị cha mẹ đánh phạt mà không dámkhóc than vì đã nhận ra lỗi của mình) (2 Sam 12, 15-23). Còn Saulê ăn năn không thật lòng, vì ông đã biết Chúa chọn Đavit vậy mà vẫn tìm giết Đavit. Ông chỉ nhận lỗi của mình cho qua chuyện vậy thôi.  

Lời Chúa
: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trước mắt Ngài”. (Tv 50, 5-6).

Cầu nguyện : Lạy Chuá là nguồn Tình yêu, xin cho chúng con nhận ra tình thương tha thứ của Chúa, xin cho mỗi khi chúng con lỡ sa ngã biết thật lòng sám hối quay về với Chúa. Amen.  

VIII. GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

  TÔN SÙNG  

Trong cuộc giữ đạo, thỉnh thoảng chúng ta dùng tiếng tôn sùng. Dùng thế là dùng, nhưng ý nghĩa chúng ta không rõ lắm. Có thể hiểu: tôn là kính, sùng là hâm mộ việc tôn kính.   

Thường thường, chúng ta không có được một cái nhìn bao quát, chỉ biết nhìn phiến diện, phân tách. Do đó, chúng ta thấy vị thánh này có khía cạnh dể thương. Ví dụ: Thánh Têrêsa Hài Đồng mình thấy tánh cách thương yêu tín thác của trẻ thơ mình thấy thích, mình nói được “mê phần nào”; Thánh Giuse đơn sơ khó nghèo, dễ mến quá; Thánh Phanxicô Assisi sống nghèo đặc biệt mình phục lắm. Theo gương các ngài thì khó qua nên thường chạy đến bắt chước, nương nhờ các ngài. Như thế, nói được là tôn sùng, nghĩa là thấy gương đáng mến, cố gắng bắt chước, thấy mình hèn kém, nhờ Đấng thánh mình mến mộ giúp sức. Trong cuộc sống thiêng liêng, thường nhớ và mong đợi nơi Đấng thánh mình tôn sùng.


Ngoài phương diện thiêng liêng đạo đức thì không nói được là tôn sùng.
Cầu Đức Mẹ để thi đậu, để làm ăn khá… chưa  gọi được là tôn sùng. Hành hương vì tọc mạch, mong thấy được những điềm lạ, người ta đi mình đi cho vui… Hành hương là để tỏ mình thánh thiện,  biết sống theo phong trào đạo đức. Tệ hơn, kêu cầu thánh Antôn để được lại vật đã mất, mà nói là tôn sùng thì xa vời quá.  

Tôn sùng không phải là “điều kiện vô bất đắc” nghĩa là không tôn sùng thì không rỗi. Tuy nhiên, phần lớn các thánh đều có một lòng tôn sùng nào đó, nhất là tôn sùng Đức Mẹ. Nhưng chúng ta cũng phải nhận định rõ: ham cái chi một ít mà  kể là tôn sùng  thì không đúng. Tôn sùng để lành thánh, thiện hảo hơn người. Đó là lạm dụng Đấng mình tôn sùng.  


Tôn sùng chính đáng thích thực nhằm đưa đến đời đạo đức thánh thiện, loại được một phần tính kiêu ngạo và ích kỷ của mình. Nói theo lối bình dân, tôn sùng một vị thánh nào, thì nói được, mình có được bạn thân trên thiên quốc, thường gặp nhau, tiếp xúc với nhau và nhờ nhau để gặp Chúa, thân với Chúa và kết hợp với Chúa.  

  TÔN SÙNG MẸ MARIA QUA VIỆC LẦN CHUỖI  

Có thể nói, gần như toàn thể các thánh đều tôn sùng Mẹ Maria, Đấng mà Chúa đã trối lại cho nhân loại “Này là Mẹ con”.  

Thời xưa, lúc mới truyền đạo, các nhà thừa sai đã dạy, đã tập cho chúng ta mỗi tuần đọc nguyên chuỗi Môi Khôi (150 kinh) mỗi Chúa Nhật: sáng 50 kinh, trưa qui tụ đọc 50 kinh, chiều 50 kinh. Gia đình nào không tham gia được buổi kinh trưa thì kinh tối trong gia đình phải chung nhau đọc 50 kinh.  


Nhưng thế có nói được là tôn sùng Đức Mẹ chưa? Tôn sùng vì mình thường chạy đến nương nhờ cầu xin, chưa đủ! 

Trước tiên phải nhận thức việc mình làm, không làm theo lệ thói máy móc.

Đúng ra, phải là việc đạo đức, cho nên việc cầu xin để thi đậu, để hết bệnh, để được may mắn trong công ăn việc làm… chưa nói được là tôn sùng mà có thể là lạm dụng.

Lần nhiều chuỗi để được tiếng tôn sùng, chưa phải là tôn sùng.

Xin cho chính việc tôn sùng (lần chuỗi) được tốt hơn, đúng hơn, đẹp hơn…

Vì mộ mến đức hạnh của Đấng mình tôn sùng nên mong ước, noi gương, lại cũng vì mộ mến, nên thường giao tiếp cầu xin; xin giúp cho biết xem lễ, làm việc lành tốt hơn. Đó chính là tôn sùng đích thực.

Thật ra, chăm chú, ý thức thường xuyên đọc 50 kinh kính mừng, kể là quá tầm trí của con người. Cho nên, Hội Thánh ghép vào 15 mầu nhiệm Vui – Thương – Mừng chuyển đổi nhau. Khi nhớ kinh, khi nhớ Chúa.  

Cũng nói được là nhờ Mẹ Maria giúp, nhìn Chúa, thân với Chúa và kết hợp với Chúa. Có người quả quyết: Lần chuỗi không suy niệm là xác không hồn. Nếu biết dùng suy niệm trong “lần chuỗi” thì lần chuỗi có thể là trường dạy chiêm niệm (kết hợp với Chúa).  

Chúng ta lần chuỗi thế nào? Có dám quả quyết tôi tôn sùng Mẹ Maria không? Thời nay, tín hữu lần lần quên hẵn việc lần chuỗi, có thể kể là phận khó nhọc trong cuộc sống đạo. Giá như còn giữ lệ thói của tiền nhân thì như máy móc.  

Xin Chúa canh tân đời sống chúng ta, để chúng ta hiểu biết, dùng việc lần chuỗi, tôn sùng Mẹ Maria, nhờ đó, chúng ta tìm gặp Chúa, thân với Chúa và kết hợp được với Chúa.

Nhờ Mẹ Maria đến cùng Chúa Giêsu (per Mariam ad Jesum)!
 

CHÚA LÊN TRỜI  

Có thể công trình Chúa đã tròn đầy (viên mãn) nên  Chúa về trời. Khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã tuyên bố: Đã hoàn tất (consumatum)! Xem ra Chúa không còn phải làm chi nữa; Chúa về trời, nghỉ ngơi toàn phúc. Không hẳn như thế!  

Chúng ta vẫn biết - primum movens non movetur -  nguyên động (lực) thì không động. Do đó, chúng ta có thể nói ngược: không giây phút nào Chúa không động. Động mà không bị động.  


Chúa lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Không phải để an nghỉ, nhưng để hiện thực thường xuyên công trình cứu chuộc, xin Chúa Cha tha thứ lỗi lầm, hoàn hảo hóa con người khuyết kém, uốn nắn con người tội lỗi, dẫn dắt con cái lỗi lầm.  


Chúa về trời, đúng ra Chúa ở lại với chúng ta đến tận thế. Xem ra Chúa vẫn làm việc thường xuyên và chúng ta có thể hiểu: hễ sống thì phải có động. Do đó, Chúa quả quyết, Thầy ở cùng các con đến tận thế (cũùng có thể Chúa ở trong chúng ta đến đời đời)


Vậy lên trời để làm gì? Bài học cho chúng ta nhớ cuộc sống của chúng ta có trời và đất. Đất là tạm qua, trời là vĩnh cửu. Không được bám những cái tạm qua, phải mong ước đạt được vĩnh cửu.  


Tạm qua, tự nó không đầy đủ và không trường tồn, có khoái lạc chút ít thôi. Cái khoái lạc tạm qua thường đưa con người đến đau khổ. Hạng người bi quan lại thường nói “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Như thế, xem ra đời vui ít khổ nhiều!


Nhưng trời sinh ra mình để chịu khổ thôi sao? Vô lý quá! Dĩ nhiên không đúng với công trình tạo dựng nguyên khởi. Nguyên tổ được tạo dựng trong tình trạng không chết và hưởng phúc. Nguyên tổ đã lật đổ chương trình. Chúa lại cải tạo và giao cho mọi người phải biết dùng cuộc sống tạm để - nhờ Chúa chuộc lại,  được tham gia vào sự sống và hạnh phúc của Chúa – đạt cái vĩnh cửu đời đời.  


Phải biết dùng đời tạm. Đời tạm không phải là chờ khổ sai.  Khó nhọc ở đời chính là phương tiện để sống thiện hảo. Có khó mới có công.  


Chúa tình yêu đã về trời thì đòi người yêu phải thường nhớ và tiếp xúc với Chúa. Chúa lên trời bảo chúng ta: Đừng bàm đời, mà dùng đời để tiến về Chúa và  mến yêu Chúa.  

IX. QUỚI CHỨC TÌM HIỂU 

SẮC LỆNH TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

Chương III: Các Môi Trường Hoạt Động Tông Đồ  
10. Các cộng đoàn trong Giáo Hội

Giáo dân góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo Hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, ngôn sứ và là vua. Trong những cộng đoàn của Giáo Hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu không có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các vị chủ chăn thường không thể đạt được đầy đủ kết quả. Cũng như giáo dân nam nữ đã giúp Thánh Phaolô trong việc rao giảng Phúc Âm (x. CvTđ 18,18-26; Rm 16,3), những người giáo dân có tinh thần tông đồ đích thực cũng đang trợ giúp những anh em thiếu thốn và nâng đỡ tinh thần các vị chủ chăn và các tín hữu khác (x. 1Cor 16,17-18). Vì được nuôi dưỡng nhờ tham dự cách tích cực vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn, chính họ nhiệt thành góp phần vào những công cuộc tông đồ của chính cộng đoàn đó: họ đem những người có lẽ đang xa lạc trở về với Giáo Hội. Họ cộng tác đắc lực vào việc rao truyền lời Chúa nhất là bằng việc dạy giáo lý. Họ đem khả năng của mình làm cho việc coi sóc các linh hồn và cả việc quản trị tài sản của Giáo Hội sinh hiệu quả hơn.  
Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi qui tụ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của Giáo Hội 1 . Giáo dân nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình để hoạt động trong giáo xứ 2 . Họ cũng nên có thói quen trình bày với cộng đoàn Giáo Hội những vấn đề riêng của mình hay của cả thế giới hoặc những vấn đề liên quan tới phần rỗi mọi người để cùng nhau góp ý kiến, nghiên cứu và giải quyết. Họ cũng phải tùy sức mà cố gắng đóng góp vào mọi công cuộc tông đồ và truyền giáo của gia đình Giáo Hội địa phương.  
Giáo dân phải luôn luôn nuôi dưỡng ý thức về giáo phận vì giáo xứ như một tế bào của giáo phận. Họ phải luôn mau mắn đáp lại tiếng gọi của Chủ Chăn và tùy sức tham gia những sáng kiến chung của giáo phận. Hơn nữa, để đáp ứng những nhu cầu nơi thành thị cũng như ở thôn quê 3, họ không chỉ hạn hẹp sự cộng ác của mình trong giới hạn giáo xứ hay giáo phận nhưng họ cố gắng mở rộng phạm vi tới cả các lãnh vực liên xứ, liên giáo phận, quốc gia hay quốc tế. Hơn nữa, việc di dân mỗi ngày một nhiều, những mối tương giao gia tăng, và việc giao thông dễ dàng đã không để một thành phần xã hội nào sống đóng kín cho riêng mình. Vì thế người giáo dân phải quan tâm đến những nhu cầu của dân Thiên Chúa ở rải rác trên khắp địa cầu. Nhất là họ phải coi những công cuộc truyền giáo như việc của chính mình, bằng cách đóng góp về vật chất hay về cả nhân sự. Vì chưng nhiệm vụ và vinh dự của người Kitô hữu là trả lại cho Thiên Chúa phần của họ đã nhận nơi Ngài (Trích SLTĐ Giáo Dân, số 10).  

Gợi ý giải thích:
 
- Hoạt động Tông Đồ của người giáo dân là cần thiết và hiệu quả thế nào?
- Thời Giáo Hội sơ khởi, và trong thời Giáo Hội Việt Nam mới đón nhận Tin Mừng.
- Thời nay, Giáo Hội vẫn cần các hoạt động Tông Đồ của người giáo dân.
- Giáo dân cộng tác chặt chẽ với các linh mục giáo xứ, tuỳ sức đóng góp vào mọi công cuộc Tông Đồ và truyền giáo của gia đình Giáo Hội địa phương. Cộng tác thế nào, và đóng góp thế nào?
- Hoạt động Tông Đồ trong giáo xứ, cần có tương quan với giáo phận, liên giáo phận, hơn nữa, với Giáo Hội toàn cầu.  

Gợi ý thực hành:
 
- Là một Quới Chức trong họ đạo, ông bà đã quan tâm đến các nhu cầu của người dân trong sở biện mình thế nào? Đã có trình bày lên cha sở chưa?

- Có những đại hội cấp giáo phận, liên giáo phận... ông bà có tích cực tham dự, và động viên giáo dân tham dự không? Tại sao?


- Ông bà Quới Chức có tích cực đi thăm viếng, lấy sổ họ... để biết các nhu cầu của người dân, và trình bày lên cha sở không?  


  ĐIỀU LỆ QUỚI CHỨC 

Chương V: Nhậm Chức - Sinh Hoạt
 
ĐIỀU 22: Ban Quới Chức
, sau khi đã được Đấng Bản Quyền chấp nhận, thì phải sớm lo cử hành nghi lễ Nhậm chức trong Thánh Lễ hay khi chầu Phép Lành Mình Thánh Chúa, có đông giáo dân tham dự và nên có sự hiện diện của Đấng Bản Quyền.
 
ĐIỀU 23
: Biểu hiện của Quới Chức là Dây Băng mang chéo từ vai phải qua vai trái:
- Dây băng của Trùm Màu vàng;
- Dây băng của Câu: Màu bạc;
- Dây băng của Biện: Màu đỏ;  

ĐIỀU 24
: Mọi buổi họp bình thường hay bất thường của Ban Quới Chức đều được sự chấp thuận triệu tập của cha sở. Tất cả mọi buổi họp không do Cha sở triệu tập đều bất hợp lệ.  

ĐIỀU 25
: Nhóm họp là quyền lợi và là bổn phận của Quới Chức. Ban Thường Vụ họp mỗi tháng một lần, dưới quyền chủ tọa của Cha sở. Ban Quới Chức họp định kỳ hàng tháng tại Nhà Chung, dưới quyền chủ tọa của Cha sở.  

ĐIỀU 26
: Các cuộc họp phải được tiến hàn như sau:
- Thánh hóa trước và sau buổi họp.
- Đọc lại biên bản kỳ họp trước.
- Nêu lên đề tài buổi họp và giải thích.
- Thảo luận về cách học đạo, sống đạo và truyền đạo tại địa bàn của mình, cập nhật theo giáo huấn của Hội Thánh.  

X. TẢN MẠN  

Vàng Ròng

Mấy tháng gần đây, người dân nào cũng “chít lưỡi hít hà” bởi cơn sốt giá cả của nhiều mặt hàng hoá, từ những mặt hàng nhu yếu phẩm cho đến những món đồ trang sức và hàng hoá xa xí phẩm. Đặc biệt, thị trường vàng đang lên cơn sốt và rất nóng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Chưa bao giờ vàng lên ngôi thượng đẳng và huy hoàng như hiện nay.Thật ra, thời nào cũng vậy, vàng là vật mà ai cũng yêu quý bởi giá trị đích thực của nó.  Nhưng vàng phải là vàng ròng (Vàng có độ tinh khiết cao) thì mới được yêu quý và mới có giá trị thật sự.  
Để thử vàng, người ta hay dùng ngọn lửa ở nhiệt độ thật cao để vàng tan chảy ra. Nếu thật sự là vàng ròng thì sau khi tan chảy, nó sẽ đong lại mà không bị mất mát gì cả. Bởi đó, dân gian thường nói: “thiệt vàng sợ gì lửa”.  


Vàng cũng được dùng để so sánh với cái quí giá nhất nơi con người là nhân đức. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Đây là một so sánh rất hay và rất có ý nghĩa. Cũng như vàng ròng không bị biến chất hay mất đi dưới ngọn lửa cực nóng, thì nhân đức đích thực ở nơi con người cũng vẫn giữ nguyên phẩm tính của nó dù có phải trải qua những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. So sánh này cho chúng ta thấy tâm thức của con người khi nhận định về giá trị của nhân đức. Nhân đức luôn được quí trọng và được đánh giá cao trong mọi thời và qua mọi thời. Người có nhân đức là người có vàng ròng nơi chính mình. Họ sẽ được mọi người yêu mến và  quí trọng. Không những mọi người yêu mến họ mà cả Thiên Chúa cũng dành cho họ một lòng yêu mến đặc biệt nữa.  


Nếu nhân đức nếu được nhìn cách siêu nhiên thì lại càng có giá trị hơn vàng ròng bội phần. Bởi lẽ, người ta có thể dùng tiềân để mua lấy vàng và sở hữu chúng, nhưng người ta sẽ mãi mãi không thể dùng tiền bạc hay bất cứ cái gì để mua lấy hay đổi lấy nhân đức cho mình được. Nhân đức là vô giá! Một người độc ác và hung dữ sẽ không thể bỏ ra vài trăm lượng vàng hay vài tỷ bạc để mua lấy cho mình nhân đức hiền lành được; cũng không thể nào mua lấy hay đổi lấy nhânđức khiêm nhượng cho một con người kiêu căng và tự phụ được! Nhân đức phải được rèn giũa mỗi ngày, dưới ơn trợ giúp của Chúa.  


Những nhân đức tự nhiên (công bằng, khôn ngoan, dũng cảm, tiết độ, hiền hoà, khiêm nhượng, yêu thương, kiên nhẫn, từ tốn. . . ) đã cao quý đến như thế, đã vượt xa vàng ròng như thế, thì huống chi là những nhân đức siêu nhiên (Tin, cậy, mến) mà con người đã nhận lãnh cách nhưng không từ Thiên Chúa. Những người Kitô hữu đích thực là những con người hạnh phúc và giàu có. Bởi lẽ, họ đang sở hữu trong mình một kho báu vô giá. Kho báu mà họ đang mang lấy trong mình (nhân đức tự nhiên và nhân đức siêu nhiên) sẽ không bao giờ sợ mất đi bởi mối mọt hay trộm cướp được. Kho báu nhân đức sẽ vĩnh tồn và không bao giờ bị thất thoát. Kho báu nhân đức này sẽ làm cho con người nên cao trọng không những ở đời này mà cả trong cuộc sống mai sau nữa.  


Sở hữu nhiều vàng bạc là bằng chứng của một người giàu có, nhưng chưa thể là bằng chứng của một con người hạnh phúc và tự do thật sự! Nếu không khéo thì những ai đang có quá nhiều vàng bạc nơi mình sẽ sống trong lo âu, sợ hãi, bất an cả ngày lẫn đêm và thậm chí sẽ trở thành tên nô lệ đáng thương nữa. Nhưng những ai sở hữu cho mình một kho báu nhân đức thì sẽ là người giàu có và hạnh phúc thật sự. Họ sẽ là người tự do với trọn vẹn ý nghĩa của từ ngữ này. Đời sống của người sở hữu kho báu nhân đức sẽ sung túc và trổ sinh hoa trái của Bình an, Hoan lạc, Bác ái, Kiên nhẫn, Bao dung, Nhân từ, Trung tín . . . Đó mời là người hạnh phúc đích thực và tự do đích thực.  


Tuy tiền của, bạc vàng không thể đổi lấy nhân đức nếu con gười có chủ ý trao đổi hay mua bán mang tính vụ lợi vật chất. Nhưng nếu ai biết sử dụng tiền của của mình cách khôn ngoan thì vẫn có thể trở thành người giàu có trước mặt Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã bảo người thanh niên giàu có trong Tin mừng rằng: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." (Mt 19,21). Ngài cũng dạy mỗi người chúng ta rằng: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” (Lc 16,9). Đó là những lời dạy thâm tình và khôn ngoan mà Đức Giêsu đã dạy cho tất cả chúng ta. Ai là người thiết tha và yêu mến cuộc sống vĩnh cửu thì hãy để tâm suy nghĩ và thi hành những lời chỉ dạy của Ngài.  


Vàng ròng đang lên cơn sốt và đang ngự trị trên đỉnh vinh quang của nó, thì chúng ta cũng hãy biết quý trọng kho báu nhân đức mà chúng ta đã được trao tặng cách nhưng không hay do những nỗ lực tập luyện mà có. Đừng phung phí và đánh mất kho báu nhân đức vốn quí hơn vàng rồng bội phần nơi chúng ta.  


XI. MỘT LỐI SỐNG  

MỘT THỜI ĐỂ SỐNG, MỘT THỜI ĐỂ YÊU  

Hãy là người đãi vàng.
Hãy thu lượm những hạt vàng trong cuộc sống.
 

Khi tôi mười chín tuổi thì mẹ tôi bị ung thư và cuộc sống đối với mẹ đã có thể đếm được từng ngày. Tôi vừa mới học xong năm thứ nhất đại học nhưng là chị cả của năm đứa em nhỏ ở ngoại ô, tôi quyết định gác sách tập để thu xếp việc nhà và thuốc thang cho mẹ.  


Những gì ta học được trong một năm thật là kinh khủng. Tôi về nhà vào tháng chín. Mẹ tôi mất tháng một. Ba tháng sau, tôi đã nhận thức được một điều thiết yếu: tôi vẫn đang sống. Tôi khoan khoái tận hưởng khí trời mà tôi đang hít thở, cũng như vẻ đẹp kiêu xa của loài thạch thảo hay thuỷ tiên.  


Trở lại trường Đại học, bạn bè quanh tôi dường như ai cũng sầu não. Tôi hiểu là mình đã thay đổi đến mức nào: từ nay, cuộc sống đối với tôi như một món quà tặng.


Dĩ nhiên đôi lúc cuộc đời cũng đen tối. Tôi đã từng trải qua những lúc "lên voi", những lúc "xuống chó". Ở  thời  buổi mà sự bi quan đang là thời thượng, những khả năng tàn bạo của con người bày biện ra mỗi ngày trên trang nhất các tờ báo.


Tuy vậy, cuộc sống vẫn đẹp biết bao với những quan hệ bạn bè, những cuộc gặp gỡ, những phong cảnh tuyệt mỹ. . . Chính vì thế mỗi khi cuộc sống bị đe doạ thì ta lại càng gắn bó với nó nhiều hơn. Nếu ta chỉ còn sáu tháng để sống thì ta sẽ dồn hết sức mình để bám víu vào mỗi thời khắc đi qua.  


Thế mà ta đã quên nó. Ta có được những dụng cụ đa năng,  hữu ích cho công việc nhà, xe cộ, nhà cửa rộng rãi. Tất cả những thứ mà ông bà chúng ta xem như của dành riêng của những người giàu có. Thay vì hưởng thụ những thứ ấy, ta lại bi quan thấy cái ly đã vơi đi một nửa, ta lại than phiền công việc chiếm hết thời gian, và gánh nặng con cái lại đè nặng lên đôi vai chúng ta.  


Hãy trung thực. Cuộc sống rất rộng lượng. Và trách nhiệm của chúng ta là phải làm cho nó đẹp thêm. Đến lượt ta, không để lại gì cho hậu duệ thì thật xấu hổ so với tất cả những tiện nghi chúng ta đã nhận được. Thật dễ dàng bào chữa: "Tôi không có thời gian". Tôi nghĩ đến cô bạn hàng xóm đã tự nguyện phục vụ quán cơm xã hội trong khu phố hai lần một tuần. Cô có chồng, rất bận bịu và luôn phải chăm lo cho hai con nhỏ.  


Một hôm tôi hỏi cô bạn:
"Bạn xoay xở thế nào để có thời gian làm việc này?". Cô ta chỉ hàng người nối đuôi nhau chờ đợi bên ngoài và trả lời :

- Làm sao mà tôi có thể làm ngơ được.

Câu hỏi không phải là: "Ta có nên làm điều đó không?" mà là  ta phải làm thế nào? Nhưng trước tiên hãy nhận thức rằng toàn bộ những điều nhỏ nhoi làm cho cuộc sống đẹp hơn biết bao: cảm nhận được hơi ấm của bàn tay con mình, nhìn ngắm chồng đọc sách trong ánh chiều tà, thưởng thức  một cuốn sách hay. . . tất cả những khoảnh khắc ấy là những hạt vàng rải rác trên lối đi toàn sỏi đá. Lý tưởng là ở chỗ chúng ta khám phá ra chúng mà chẳng cần phải kiếm tìm. Nhưng phải với một lối sống là không nên mơ mộng.  

Đấy là những gì tôi xin đề nghị: tập nhìn nhận những điều tốt đẹp quanh ta và chia sẻ nó cùng mọi người. Nếu chúng ta đã đánh mất khả năng tạo những bất ngờ cho mình thì những sự việc buồn đau sẽ giúp chúng ta tìm lại chúng. Sau khi mẹ tôi qua đời, tôi nhận ra rằng cuộc đời là một điều kỳ diệu. ANNA QUINDLEN  


XII. SỐNG  LỜI CHÚA: Mt 28,20
 

Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế

1759    23-04-2012 10:00:42