Sidebar

Thứ Bảy
27.04.2024

Đức Kitô Là Hy Vọng và Cùng Đích Của Người Tín Hữu - Tháng 12 năm 2011

LỜI CHỦ CHĂN

TOÀ GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2, Vĩnh Long

Ngày 14.12.2011


V/v  Đức Kitô Hy Vọng và Cùng Đích của mọi Tín Hữu

Kính gởi :  Các Linh Mục,
                  Các Tu Sĩ Nam Nữ
                Anh Chị Em giáo dân  Địa Phận Vĩnh Long

Đại Hội Dân Chúa Việt Nam kết thúc, nhưng lại mở ra cho những bước chân hy vọng, niềm hy vọng được khơi nguồn và hoàn tất  nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (SĐ, số 8)

1.  Hy vọng để sống, và sống vui. Tuy nhiên, cuộc sống có những khó nhọc,  nào là bị thua thiệt, nào là thất bại, rồi bệnh tật, nhất là cái chết, là những thách đố dễ gây ra hoang mang, chán nản, sợ hãi.  Thánh Phaolô nói với các tín hữu thành Thessalonica: "Anh em không được buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng " (1 Th 4, 13).

Chúng ta có thể hy vọng điều gì ?

Trong Nghi Thức Rửa Tội cho người lớn, Vị chủ lễ (CL) hỏi người dự tòng: Con xin gì cùng Hội Thánh Chúa?

Thỉnh nhân (TN): Thưa con xin đức tin.

CL: Đức tin sinh ơn ích gì cho con ?  

TN: Thưa đức tin đem lại cho con sự sống đời đời

CL:  Sự sống đời đời là con  nhận biết Thiên Chúa thật và Đấng Ngài sai đến là Đức Giêsu Kitô

Như vậy, ai có thể ban cho con người sự sống đời đời ngoạk trừ Thiên Chúa  là Đấng hằng hữu ?  "Ở đâu có Thiên Chúa, thì ở đó có tương lai. Nơi nào Thiên Chúa hiện diện, ở đó có hy vọng." (Benêđitô XVI, phát biểu tại Fribourg tối Chúa Nhật  25.9.2011 trước khi lên máy bay trở lại Roma).

Đó là điều cốt yếu mà trong chuyến viếng thăm Nước Đức, từ  ngày 22 đến 25 tháng 9 năm 2011, Đức Bênêđitô XVI đã nói với các tín hữu  Công giáo ở Đức Quốc, quê hương của ngài,  nói với Châu Aâu đang theo chủ nghĩa thế tục, đang tìm cách xoá bỏ hình ảnh của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu Kitô. Với những người Đại diện Hội Thánh Tin Lành ở Erfurt, trong cuộc gặp gở thân thiện, đối thoại, cùng nhau cầu nguyện, Đức Thánh Cha đã nói đến sự cần thiết và quan trọng cùng nhau làm chứng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô trong thế giới hôm nay, một thế giới không muốn biết tới Thiên Chúa và không quan tâm đến Thiên Chúa.

2. Trong Thư gởi các tín hữu thành  Êphêsô, Thánh Phaolô  nói rằng trước khi gặp gỡ Chúa Kitô, họ không có niềm hy vọng: "Anh em hãy nhớ lại, xưa kia anh em là dân ngoại, .. thuở ấy anh em không có Đức Kitô...không hy vọng, không Thiên Chúa nơi thế gian nầy"  (Eph, 2,11-12).

Dựa vào lời Chúa Giêsu "Sự sống đời đời là họ nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha sai đến là Giêsu Kitô" (Gioan 17,3), Đức Bênêđitô XVI đã quả quyết  "Đúng là ai không biết Thiên Chúa, dù có bao thứ hy vọng đi nữa, thì cuối cùng cũng không có hy vọng, không có hy vọng lớn lao nâng đỡ tất cả cuộc sống. Niềm hy vọng thật sự, niềm hy vọng cao cả của con người, niềm hy vọng vững vàng bất chấp mọi chán nản thất vọng, chỉ có thể là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta và yêu thương đến cùng, đến khi mọi sự được hoàn tất" (Gioan 13,1; 19,30; xem Thông Điệp Spe Salvi, số 27).

Người Kitô hữu có môt tương lai: không phải họ biết tường tận điều gì đang chờ đợi mình, nhưng họ biết một cách tổng quát rằng cuộc đời họ không kết thúc trong hư vô  ( Spe Salvi , 2).

3.  Niềm hy vọng của các tín hữu bắt đầu với sự gặp gỡ Chúa Kitô, là Đấng đã chết và sống lại để cứu chuộc con người. Hằng ngày họ có thể gặp gỡ và sống với Người trong Bí Tích Thánh Thể : "Bí Tích nầy là trái cây hằng sống, ai ăn với lòng tin sốt mến chân thành, sẽ không chết đời đời. Đó là cây sự sống cho kẻ nắm được nó và ai cầm giữ nó là người có phúc."  (Thánh Albertô, chú giải Tin Mừng theo Thánh Luca, 22,19).

Trên đường lữ hành, Cầu nguyện là trường học của hy vọng  : "Nếu không còn ai nghe tôi nữa, thì vẫn còn Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu bất cứ người nào, tôi vẫn có thể thưa chuyện với Chúa. Nếu không còn ai có thể giúp tôi, khi có một nhu cầu hoặc một kêu gọi bức bách vượt quá khả năng mong đợi con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp tôi."  (Bênêđitô XVI, Spe Salvi, 32).

Người Công giáo sống giữa thế gian, nhưng không thuộc vể thế gian (Gioan 17, 14.16). Không trốn chạy, nhưng hiện diện và làm chứng về Chúa Giêsu Kitô bằng đời sống đức tin. Hiện diện để  trở thành muối cho đời ( Mt 5,13) bằng cách thực thi công bằng và bác ái. Giữa thế gian với nhiều thử thách, nhiều gian truân , lòng tin có thể bị lung lạc. Lúc đó ta hãy chạy đến Chúa. "Hãy an tâm, chính Thầy đây, đừng sợ" (Mt 14,27).  Có khi cũng phải kêu lên như Phêrô: "Lạy Chúa, xin cứu con với" (Mt 14,30).  Thánh Augustinô dường như muốn nói với Phêrô, và cũng nói với chúng ta: "Kìa Chúa đã nghiêng  mình và nắm lấy tay bạn. Nếu tự sức bạn, không kham nổi, Hãy nắm chặt tay Đấng đang xuống với bạn."  (Enarrationes in Psalmos 95,7)

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ chúng con,

Xin dạy chúng con biết tin tưởng, hy vọng và mến yêu với Mẹ.

Xin chỉ cho chúng con nẻo đường đến Nước Chúa.

Lạy Mẹ là Ngôi Sao Sáng,  xin chiếu ánh sáng và hướng dẫn chúng con trong cuộc lữ hành trần thế.  (Spe Salvi, 50).

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
   Giám Mục của Anh Chị Em

 

 

CHỦ ĐỀ: ĐỨC KITÔ LÀ HY VỌNG VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA NGƯỜI TÍN HỮU

Đại hội Dân Chúa Việt Nam kết thúc nhưng lại mở ra cho những bước chân hy vọng, niềm hy vọng được khơi nguồn và hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (SĐ của ĐHDCVN 2010, số 8).

Sống trong lịch sử nhưng Giáo Hội của Chúa Kitô không dừng lại để định cư hay xây dựng thành trì ở trần gian này, trái lại không ngừng vươn tới Nước Trời. Dù vậy, Giáo Hội không hề coi thường những thực tại nhân sinh, nhưng cùng với mọi người tích cực xây dựng trần thế theo đường hướng của Tin mừng, chuẩn bị cho lòng người tiếp nhận Nước Trời.  Giáo Hội tin rằng mọi nỗ lực nhằm xây dựng và phát triển phẩm giá con người, sự tự do, tình huynh đệ... tất cả sẽ được biến đổi khi "Chúa Kitô trao lại cho Chúa Cha Nước vĩnh cửu và phổ quát,"  "tràn đầy tình thương, công lý và bình an."  Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô chính là tương lai của Giáo Hội, một "tương lai huy hoàng và vững chắc. Người là hy vọng, là cùng đích của ta." (TLLV của DHDC 2010, số 10).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Bà Cindy, 33 tuổi, là tín hữu tân tòng hiện sống với 3 người con tại thành phố La Flèche thuộc giáo phận Le Mans miền Bắc nước Pháp. Bà kể lại hành trình theo đạo Công Giáo như sau.

Tôi có hai người bạn Công giáo. Họ thường nói về đạo và mời tôi đến dự nghi lễ Rửa Tôi dịp Lễ Phục Sinh. Ho còn hay mời tôi tôi đến dự các buổi họp. Tại buổi họp tôi bày tỏ rằng tôi chưa được rửa tội cũng chưa được rước lễ nhưng tôi ao ước được lãnh bí tích Rửa Tội.

Cho đến lúc ấy tôi chưa hề có dịp để có thể chuẩn bị lãnh bí tích Rửa Tội. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại có ý nghĩ:           

- Mình không thể "ra đi" về thế giới bên kia mà không được rửa tội và rước lễ!

Nghĩa là, tôi muốn "đi qua nhà thờ" ngày tôi về với Chúa. Vâng đúng thế, ý tưởng muốn "đi qua nhà thờ" vào lúc chết nổi lên rất mạnh trong nội tâm tôi. Thật vậy, tôi không muốn mình bị chôn như con chó ngày tôi chết, giống như tôi từng chứng kiến đám tang của một người thân trong gia đình.

Đối với tôi, lãnh bí tích Rửa Tội là gặp gỡ Đức Chúa Giêsu Kitô, Tình Yêu của Thiên Chúa. Chúa cho tôi tái sinh và tôi rất cần được tái sinh. Đây là một trợ lực rất lớn đối với tôi trong những thời điểm khó khăn.

Thời gian chuẩn bị lãnh bí tích Rửa Tội kéo dài hai năm. Trong thời gian này tôi học biết Đức Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn cũng như có dịp gặp gỡ các tín hữu Công Giáo khác. Kể từ đó tôi tự động đến nhà thờ thường xuyên mỗi khi có thể vào những ngày trong tuần và Chúa Nhật. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn đổi khác. Đặc biệt tôi không còn nhìn cái chết giống như trước đây. Rồi tôi cảm nhận niềm an bình nội tâm ngay trong những khi tôi gặp khó khăn.

Tôi cũng cố gắng nêu cao chứng tá về Đức Tin Công Giáo cho những người sống chung quanh. Một trong những bạn gái của tôi cũng đang trên tiến trình chuẩn bị lãnh bí tích Thánh Thể. Do đó chúng tôi thường chia sẻ về các vấn đề, những khám phá và cùng nhau cầu nguyện chung.

Đối với tôi, Đức Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu, là Trìu Mến, là Đấng Cứu Độ. Thật rõ ràng, tôi không mảy may nghi ngờ gì cả!

(Truyện của Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về Chủ đề Đức Kitô Là Hy Vọng Và Cùng Đích Của Người Tín Hữu   như sau:

  1. Có thể hiểu Chúa Kitô là ý trung nhân, Đấng mà lòng ta luôn ao ước chiếm đoạt và kết hợp. Đó là đạt mục đích tối chung.
  2. Lúc còn tại thế không nên chỉ sống và tác động cho đời, vì không định cư mãi ở đời, nhưng sống và tác động cho Nước Trời.
  3. Biết dùng đời để tìm gặp Chúa và kết hợp với Chúa.
  4. Sống cho Chúa, vì Chúa, như thế thì Chúa đúng là hy vọng và mục đích của đời chúng ta.

"Sống trong lịch sử nhưng Giáo Hội của Chúa Kitô không dừng lại để định cư hay xây dựng thành trì ở trần gian này, trái lại không ngừng vươn tới Nước Trời. Dù vậy, Giáo Hội không hề coi thường những thực tại nhân sinh, nhưng cùng với mọi người tích cực xây dựng trần thế theo đường hướng của Tin mừng, chuẩn bị cho lòng người tiếp nhận Nước Trời."  (TLLV của DHDC 2010, số 10).

Lời của Đại Hội Dân Chúa nhắc nhỡ chúng ta, các tín hữu, dù đang sống trên trần thế nhưng lòng vẫn khao khát không nguôi được Chúa như là cùng đích tối hậu đời mình. Đó cũng là tâm tình của những ngày Mùa Vọng nầy. Thái độ cần có là tỉnh thức, sẳn sàng, luôn mở lòng hướng về Chúa.

Xin được mượn bài viết sau đây của Cha Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô, ngày 28/11/2005 (nguoitinhuu.com) để nói lên thái độ sống niềm hy vọng cần phải có của người tín hữu:  Đừng chùng xuống!

Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng! Đừng ngủ mê! Đừng chè chén say sưa, đừng mê mải sự đời mà quên đi ngày Chúa đến! ... Bao nhiêu lời kêu gọi hay cảnh giác của phụng vụ nói lên một nét cốt yếu của tinh thần Mùa Vọng.

Sống là vươn tới

Kinh nghiệm tâm lý cho ta thấy rằng sống là hướng tới, là chờ mong, là hy vọng. Ai không còn gì để chờ, để đợi, để ước, để hy vọng nữa thì kể như đã chết rồi. Đời họ coi như không còn ý nghĩa gì nữa. Trong thực tế, ta luôn luôn có những mục tiêu nho nhỏ và gần kề để đạt tới; đạt rồi, ta lại có những mục tiêu khác, và cứ như vậy trọn cuộc đời. Nhưng điều cốt yếu là các mục tiêu nhỏ, gần phải phục vụ cho một hay nhiều mục tiêu lớn hơn nào đó, và cuối cùng tất cả mọi mục tiêu đều phải qui về một mục tiêu lớn nhất, một mục tiêu cuối cùng, một mục tiêu mang lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc đời chúng ta. Chính mục tiêu tối hậu này mang lại động lực căn bản và tính thống nhất cho cuộc đời con người. Đạt được nhiều mục tiêu "giai đoạn" (cho dù là tốt) nhưng thiếu mục tiêu có giá trị quyết định, cuối cùng, thì rồi cũng chẳng tới đâu!

Đời sống Kitô hữu cũng hoàn toàn như vậy. Đời sống của Giáo Hội cũng như đời sống của mỗi người môn đệ Chúa Kitô nằm căng giữa hai biến cố: là cuộc giáng thế của Chúa lần thứ nhất và cuộc giáng lâm của Người lần thứ hai lúc cùng tận của lịch sử. Mùa Vọng nhắc nhở ta điều thiết yếu đó. Hồng y John Newman viết: "Trong nền tu đức Mùa Vọng, Đức Kitô xuất hiện như một người đã có mặt đó rồi và đồng thời vẫn không ngừng được chờ mong. Và người Kitô hữu sống nền tu đức này là một con người chờ đợi Đức Kitô. " Vậy chờ mong, hy vọng là thái độ cốt yếu, căn bản, thường xuyên của người tin Chúa. Không phải chỉ trong vòng bốn năm tuần trước lễ Giáng sinh. Chúng ta có một mục đích cuối cùng hết sức rõ ràng. Chúa Giêsu ở cuối đường ta đi, Người mang tới cho đời ta ý nghĩa chung cuộc, và đồng thời Người cũng đang tiến đến đón gặp ta trong từng giây phút, từng cảnh ngộ ... của cuộc đời. Ở đời, người ta mong chờ mà thường thường với nỗi thấp thỏm, lo sợ vì ta thường bị hụt hẫng, bị lừa dối v. v. Còn người Kitô hữu chờ mong mà luôn vui tươi, bình an, cởi mở.

Sống bằng chờ mong và hy vọng căng ta ra phía trước. Bởi thế, tôi xin dùng một cách nói khác để tóm tắt những lời cảnh cáo của Mùa Vọng: Đừng chùng xuống!

Vài kinh nghiệm

Ta biết thế nào là "chùng xuống". Kinh nghiệm người xem một trận bóng đá. Đầu trận, các cổ động viên của đội bóng tràn trề hy vọng, họ hò hét, họ vỗ tay, nhiều khi ca hát, hô khẩu hiệu, đánh trống, bóp còi... Họ căng ra chờ một may mắn có thể đến (và đối với họ lúc đầu là nhất thiết phải xảy ra). Nhưng giả sử đội của họ bị dẫn bàn trước, họ đã bớt náo nhiệt đi một phần, nhưng dù sao hy vọng vẫn chưa hết. Giả sử hai phần ba giờ thi đấu đã trôi qua mà đội của họ vẫn chưa thắng được bàn nào, thì sao? Họ chùng xuống rõ ràng, không hò hét, không kèn trống như trước nữa..., hy vọng của họ tan dần, có người đã bỏ về trước, cho đến khi tiếng còi tan trận cất lên thì hy vọng nhường chỗ cho thất vọng. ......

Lịch sử Giáo Hội cũng đã từng trải qua kinh nghiệm tâm lý và tinh thần tương tự. Các Kitô hữu tiên khởi nao nức phấn khởi sống hướng về ngày Chúa đến mà nhiều người nghĩ là sắp xảy ra ngay trong cuộc đời họ. Niềm hy vọng đó chi phối toàn bộ cuộc sống của họ, nói chung là tích cực. Cộng đoàn Giê-ru-sa-lem thời đầu là một bằng chứng, đó là một "sáng tạo" kỳ diệu của niềm hy vọng Kitô giáo.

Đề tài Chúa quang lâm là một đề tài khá quan trọng trong giáo huấn của các tông đồ. Vào khoảng cuối thập niên 50 (thế kỷ thứ nhất), thánh Phao-lô vẫn khuyên các tín hữu Ro-ma: "Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn ngày gần đến. Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Đức Kitô" (Rm 13, 11-13).

Chúa trở lại là điều chắc chắn, niềm hy vọng Chúa quang lâm là có cơ sở. Nhưng với thời gian, nhiều người bắt đầu hoang mang và mất kiên nhẫn, khiến thánh Phê-rô phải giải thích: "Xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người nhẫn nại với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm" (2 Pr 3, 8-10). Thánh Gia-cô-bê cũng đề cập tới tình hình này: "Xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá..." (Gc 5, 7).

Hãy giữ vững hai đầu dây!

Như trên đã nói, đời sống Kitô hữu thiết yếu căng về phía trước bởi một niềm hy vọng đặt cơ sở trên chính lời Chúa hứa và được củng cố bởi một biến cố lịch sử đã qua, là cuộc giáng thế  lần thứ nhất của Chúa cùng với cái chết và sự phục sinh của Người. Tình cảnh Kitô hữu không dễ dàng: họ không được chùng xuống, nhưng luôn phải hướng về mục tiêu cuối cùng, phải để cho mục tiêu ấy điều động cuộc sống hiện tại của mình, nhưng đàng khác họ lại không được vì hướng về đó mà lơ là với hiện tại, với cuộc sống tại thế, với xã hội và lịch sử mình đang tham gia. Vừa nhập thế, vừa xuất thế, khó thật! Nhiều Kitô hữu xưa cũng như nay và mọi thời không chịu đựng nổi hai đòi hỏi có vẻ mâu thuẫn này. Họ ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Họ có quê hương ở đây nhưng quê hương thật lại ở trên trời. Họ phải dấn thân vào đời nhưng không để cho đời trói buộc. Nói đừng chùng lại, có nghĩa là phải nắm vững cả hai đầu dây, đừng chọn một bỏ một cho dù đó là cám dỗ thường xuyên mà người Kitô hữu phải đối đầu. Thật ra thì đa số chúng ta vẫn thường thích dấn vào hiện tại hơn, dành ưu tiên -không phải trong lý thuyết nhưng trong thực tế- cho cuộc sống trần gian hơn. Một trong những mục đích của mùa Vọng là tăng cường ý thức của chúng ta về thân phận rất đặc biệt của mình để củng cố niềm hy vọng cánh chung và mời gọi ta sắp xếp lại mọi sự cho ăn khớp với cùng đích cuối cùng của cuộc đời. Vì thế tôi nhận thấy rằng phụng vụ thánh lễ mùa Vọng lặp đi lặp lại nhiều lần hai lời nguyện sau đây: "Lạy Chúa, Chúa đã dùng bí tích Thánh Thể để dạy chúng con là những kẻ lữ hành dưới thế biết mến yêu và gắn bó với những thục tại bền vững trên trời". "Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con được tham dự vào mầu nhiệm thánh... Giờ đây xin Chúa thương dạy dỗ để chúng con hằng khôn ngoan sáng suốt cân nhắc những thục tại trần gian và luôn thiết tha với những thực tại bền vững trên trời".

Vừa nhập thế vừa xuất thế: khó thật nhưng không phải là không thể được vì chính Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Thiên Chúa nhập thể và phục sinh đã nêu gương cho ta, và Người vẫn ở với ta để ban ơn giúp sức cho ta.

Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện niềm phó thác vào Đức Kitô như là hy vọng và cùng đích cuộc đời chúng ta thế nào:

  1. Ngoài Chúa, dưới đời còn có gì đáng cho chúng ta mong ước và muốn đạt được?
  2. Nếu còn  ham tiền, ham danh, ham vui sướng, thì chưa nói được là  biết thờ Chúa!
  3. Nếu chưa biết chịu khổ nhọc vì mến Chúa, thì cũng chưa gọi được là thờ Chúa.
  4. Sống cho qua ngày đoạn tháng, không nghĩ đến mục đích tối chung, thì rõ ràng là không thờ Chúa.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Đại hội Dân Chúa kết thúc, chúng ta lại có một nhận định rằng: Chúa Kitô là hy vọng và là cùng đích của người tín hữu. Thật vậy, nhìn đời sống Chúa Kitô, lắng nghe và thực hành lời Chúa, chúng ta càng xác tín điều đó. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.      Thánh Phêrô nói: "Bỏ Thầy con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, quyết tâm chọn Chúa Kitô là hy vọng và cùng đích của mình.

2.      Chúa phán với Philatô: "Nước tôi không thuộc về thế gian này". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu luôn nhớ rằng thế gian là quê hương tạm, là phương tiện giúp ta đạt tới cùng đích Nước Trời trong Chúa Kitô.

3.      Chúa phán: "Hỡi những ai vất vả khó nhọc, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho". Chúng ta cầu nguyện cho các tín hữu luôn hướng về Chúa Kitô là hy vọng, và là cùng đích người tín hữu, mà được tăng cường sức sống của Chúa.

4.      Chúa phán: "Lạy Cha, Con cầu xin cho chúng, để Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, luôn trung thành đi theo Chúa đến cùng, và đạt tới hạnh phúc Nước Trời.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa ban Con Chúa làm người cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con quyết lòng bước theo Con Chúa là Đức Kitô, mà loan truyền đạo Chúa, làm chứng cho tình thương Chúa, và đạt tới Nước Trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô... Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

Phụng vụ Giáo hội hằng năm cử hành lễ Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ vào Chúa nhật cuối cùng của năm, qua đó Giáo hội muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa Chúa Giêsu chính là cùng đích của muôn loài muôn vật. Ngài là vua và muôn loài muôn vật điều quy tụ ở trong Người.


Mượn lại đoạn tin mừng của ngày lễ Chúa Giêsu Kitô là vua để ta có thể phần nào nhận biết được rằng Chúa chính là cùng đích và là hy vọng cho đời sống người Kitô hữu. Đoạn tin mừng Mt 25, 31 - 46 là một đoạn tin mừng đẹp và đem lại niềm hy vọng lớn lao cho đời sống người Kitô hữu.

Đoạn tin mừng này cho thấy được rằng hành trình tiến về thiên đàng không phải là một hình trình quá sức đối với người Kitô hữu, nhưng đó là một cuộc hành trình của tình yêu. Ai sống yêu thương thì được vào hưởng vinh quang nước Chúa. Vua Giêsu dạy nếu chúng ta muốn yêu thương và phục vụ Thiên Chúa mà chúng ta không nhìn thấy được, thì hãy yêu thương và phục vụ tha nhân mà chúng ta có thể trông thấy. Chúa Giêsu nhấn mạnh lời Ngài đã dạy bằng việc nhắc nhở cho chúng ta biết là chính Ngài ở trong những người nghèo khó, người đau yếu, và Ngài cũng tiếp tục đau khổ với họ. Vì đây là lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu, nên chúng ta xem như là lời di chúc mà Ngài để lại cho chúng ta. Qua việc Vua Giêsu đồng hoá mình với những người bé mọn: xưa ta đói các người cho ăn, ta khát các ngươi cho uống, ta mình trần các ngươi cho đồ mặc... người Kitô hữu nhận thấy được rằng Vua Giêsu hằng ngày đang ở bên họ, đồng hành với họ, cùng sống tình yêu với họ... và mở ra cho họ cơ hội để phục vụ Thiên Chúa tình yêu.

Chúa Giêsu là vua vũ trụ, là vua tình yêu nên vương quốc của Ngài là vô biên và trường cửu. Khi thuật lại đoạn tin mừng này Thánh Matthêu đã thuật lại với một hình ảnh của ngày phán xét chung, ngày mà Đức Giêsu sẽ xét xử muôn loài muôn vật. Ngày ấy, sự ân thưởng mà Vua Giêsu thưởng cho những người đã sống tình yêu là: "Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh! " (Mt 25, 23). Vào hưởng niềm vui của chủ tức là chia sẻ niềm vui niềm hạnh phúc của Chủ là Thiên Chúa. Con người được trở lại theo đúng ý định của Thiên Chúa khi dựng nên là chia sẻ vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa. Vì vậy, hạnh phúc thiên đàng chính là được nên một với Đức Giêsu, chia sẻ sự sống và vinh quang của Ngài. Ngài là nguyên thủy và cùng đích, là hình ảnh của Thiên Chúa vĩnh cửu được Thiên Chúa thông quyền làm chủ vạn vật. "Người là trưởng tử giữa đàn em đông đúc" (Rm 8,29). Người cũng được tuyên xưng là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, như Thư Thứ Nhất gửi Timôthê xác quyết: "Vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho tất cả mọi người" (1Tim.2:5-6). Là Thiên Chúa làm Người, Chúa Giêsu là vị trung gian tuyệt hảo, Đấng nối kết con người với Thiên Chúa, mang lại cho họ những thiện hảo của ơn cứu độ và sự sống thần linh.

Chúa Giêsu là trung tâm điểm của vũ trụ muôn loài. Nhờ Người và qua Người mọi sự được tạo thành: "Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! A-men (Rm 11,36). Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Ngài có từ đời đời nhưng hạ thân làm người trong thời gian và sống cuộc đời giống như chúng ta. Ngài là cốt lõi của mọi sinh linh vạn vật. Ngài đã mặc khải cho chúng ta biết về mầu nhiệm nước trời và cùng đích của đời người. Ngài là khởi nguyên và là cùng đích, là Alpha và Omega: Vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người (Col 1,16).

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy bước theo Ngài. Hãy bước theo đường lối của Ngài, vì chính Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài cao cả trên hết mọi loài nhưng lại hạ thân ngang hàng với loài người. Chúa ưu ái gọi mời: Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an (Mt 11,29).

Xin Chúa cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết nhận ra Chúa chính là lẽ sống, là niềm hy vọng và là cùng đích cho đời sống để hăng hái bước theo Người mà sống đời sống yêu thương.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 12.  THƯ GỬI TÍN HỮU GALATA (Gal)

1/ Ai là tác giả lá thư Galata?

Thánh Phaolô như chính ngài đã tự giới thiệu ở (1,1): " Phaolô Tông Đồ ... và các anh em hết thảy đang ở với tôi kính gửi giáo đoàn Galata".

2/ Thư Galata được viết ở đâu, viết cho ai và viết lúc nào?

Về thời gian và nơi chốn thì có hai giả thuyết: một số nhà thần học dựa vào những điểm tương đồng giữa thư Gal. và các thư khác của Phaolô viết trong cuộc hành trình thứ ba như thư I-II Cor. và Rôma thì thư Galata được viết khoảng năm 55 và được viết tại Êphêsô. Ngược lại, một số khác cho rằng, Thánh Phaolô viết thư này trước khi đi họp công đồng chung Giêrusalem nên ngài phải viết khoảng năm 48 - 49 và viết tại Antiôchia. Lá thư này ngài viết cho giáo đoàn tại Galata.

3/ Các Giáo hội ở Galatia là những Giáo hội nào?

Theo địa lý thì Thánh Phaolô nhắm tới các tín hữu ở Ancyra và Pessinua thuộc vương quốc miền bắc của Galatia. Nhưng theo lãnh địa chính trị thì Galatia ám chỉ thành phố La mã mà ngay từ năm 25 trước Chúa Giáng sinh đã được gọi như thế. Theo đó thì Galatia gồm Lycaonoia, Pisiđia và Phrygia và phía nam của thành phố Galatia là Antiochia, Iconia, Lystra và Đerbê.

4/ Ai là người thiết lập Giáo đoàn ở Galatia?

Thánh Phaolô cùng thánh Barnaba là những người đầu tiên đặt chân rao giảng cho những vùng này (Cv 13, 14-14, 23) và cũng trở lại đây vào hai dịp khác nữa. (Cv 16,1- 6; 18,23).

5/ Nội dung lá thư gửi Galata nhắm tới điều gì?

Lá thư này có tính cách bút chiến chung qui Phaolô bàn tới Tin Mừng ngài đã rao giảng nhân dịp một số người Do Thái đến làm lung lạc niềm tin của nhiều người. Phaolô đã khẳng định: chỉ có một tin mừng là Chúa Kitô chết và sống lại, là nguồn cứu rỗi độc nhất cho mọi kẻ tin, chứ không phải lề luật hay cắt bì. Tin mừng do Thánh Phaolô nhận lãnh trực tiếp từ Thiên Chúa chứ không phải từ người phàm nào.

Một số đoạn đáng ghi nhớ trong thư Galata:

- " Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Chúa    Kitô sống trong tôi " (Gal 2,20).

- " Tất cả các lề luật đã được bao gồm trong lời này: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi" (Gal 5,14).

- " Không còn Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì hết thảy anh em là một trong Chúa Kitô". (Gal 3, 28).

- " Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người" (Gal 6,10).

- " Ước gì tôi chẳng có hãnh diện về điều gì, ngoại trừ thập giá của Chúa Giêsu Kitô". (Gal 6,14).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe, cầu nguyện và làm theo Lời Chúa dạy, để đời con luôn bước đi trong sự hướng dẫn của Chúa. Xin cho Danh Cha được mọi người nhận biết, Nước Cha hiển trị trong xã hội chúng con. Amen.

SỐNG ĐẠO

THỜ THIÊN CHÚA

Theo đạo Thiên Chúa là thờ Thiên Chúa. Nhưng ch1ung ta có hiểu thờ Thiên Chúa là gì không? Ngoài miệng nói là thờ mà tiếng "thờ" thường chúng ta không hiểu là gì!

Theo Công giáo chúng ta thì thờ là nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng cao cả tuyệt đối vô cùng, không Đấng nào cao trọng hơn.

Dĩ nhiên khác biệt với lối tin thờ thần thoại hay những vị thánh hiền trung liệt hoặc là thờ một nghề nghiệp như Lỗ ban, lại có những lối thờ dị đoan như thờ ông hổ (chúa sơn lâm) thờ ông tướng để giúp cho pháp sư thực hiện những điều lạ.

Thờ như thế nói được là một lối tôn kính hay một điều lợi dụng.

Thờ theo Công giáo thì điểm đầu tiên là nhìn nhận Chúa cao cả tuyệt đối không vị thần nào bằng Chúa được. Thứ đến phải nhìn nhận mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa. Vì Chúa dựng nên mình, không chi có nơi mình mà không phải nhờ Chúa ban. Do đó, dù Chúa ban cho con người có tự do, nhưng tự do tuỳ thuộc Thiên Chúa.

Thờ Chúa thì phải sống theo ý Chúa. Muốn biết ý Chúa thì phải tìm hiểu. Chúa dựng nên chúng ta thì phải có mục đích. Làm sao biết được mục đích nếu Chúa không chỉ dạy, nghĩa là phần nào chúng ta đòi Chúa mạc khải và ban dấu chứng cho chúng ta nhận biết được Chúa mạc khải.

Nhận biết Chúa mạc khải thì đòi chúng phải giữ đạo, nghĩa là phải tôn thờ Chúa theo đường lối của Chúa dạy.

Cho đến hôm nay chúng ta có đạo, nhưng thờ Chúa như thế nào? Thờ Chúa là Đấng tuyệt đối hay như một bậc cao tr?i có thể phù hộ chúng ta khỏi tai hại và được phúc lạc?

Thờ Chúa, kể Chúa là Đấng cao siêu hơn mình, đáng cho mình tuân phục hay thờ Chúa vì sợ Chúa gây tai hại cho mình?  Thờ Chúa mà không biết yêu mến Chúa,  thờ theo những cách thế vừa trình bày trên đây thì sao gọi được là thờ?

SỐNG THEO Ý CHÚA

Sống thờ Chúa, yêu mến Chúa, thì cũng phải sống theo ý Chúa. Vì  yêu nhau thì "cùng nhau nhìn về một hướng", Chúa muốn thế nào thì mình cũng muốn thế đó.

Chúa mạc khải cho chúng ta Mười Điều Răn đ? nhắc chúng ta phải tuân lệnh Chúa. Nhưng Mười Điều Răn đó là đại cương, cao bao nhiêu việc ở ngoài Mười Điều răn, chúng ta cũng tìm hiểu và biết sống theo ý Chúa.

Thánh Phaolô nói: Dầu ăn, dầu uống, dầu làm việc gì khác, cũng phải làm cho sáng Danh Chúa. Chúng ta đổi lại một chút: dầu ăn, dầu uống, dầu làm việc gì khác thì đều phải làm theo ý Chúa.

Chúng ta còn sống trên đời thì đâu phải để làm việc đạo không thôi, mà phải lo việc đời nữa: lo việc nàh, lo sống, lo sức khoẻ, lo phận sự đối với đời nữa. Nhưng dầu là việc đời, chúng ta vẫn làm theo ý Chúa. Vì dụ trước bữa ăn, chúng ta có thể âm thầm thưa với Chúa:  "Con ăn thế nào cho đẹp ý Chúa?"  Ăn cho khỏi đói, ăn cho khoái khẩu, ăn để bảo vệ sức khoẻ, đó là sống cho thể xác. Ăn đúng ý Chúa là bảo vệ sức klhỏe để có kảh năng làm việc cho Chúa.

Ngay cả trong giờ nghỉ ngơi giải trí thầm hỏi Chúa: con có nên nghỉ ngơi giải trí không? Giải trí làm sao cho đẹp lòng Chúa, ngủ nghỉ cũng vậy.

Tư tưởng "cùng nhìn về một hướng" với Chúa là rất đẹp vì thật ra đó là việc tôn thờ.  Nhìn nhận Chúa là chủ tể khiến mình hoàn toàn lệ thuộc, giúp khỏi phạm tội, lại được kết hợp với Chúa, một phần nào chiếm được mục đích tối chung.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con sống ở đời này, nhưng không bao giờ bám vào đời; giúp chúng con nếu không được kết hợp với Chúa thường xuyên, thì ít ra, chúng con hay nhớ Chúa, kết hợp với Chúa và làm việc với Chúa. Không những "cùng nhìn về một hướng" mà còn được kết hợp với Chúa, đó là đạt một phần mục đích tối chung ngay khi còn sống dưới đời.

ĐẠO THIÊN CHÚA, ĐẠO TÌNH YÊU

Thời sơ khai, các cha Thừa sai đến dạy đạo ở Việt Nam, người Việt mình giữ đạo rất tốt, biết liên kết, nâng đỡ và thương yêu nhau, cho nên dân chúng thời đó gọi đạo Thiên Chúa  là đạo thương yêu.

Hiện giờ, phong trào từ thiện lan rộng trong xã hội, nhưng tâm tình thương yêu nơi chúng ta cũng phải còn mãi. Nếu đạo Chúa không còn tình yêu, thì không còn gọi là đạo tình yêu nữa.

Có yêu Chúa, yêư người thì mới gọi được là đạo tình yêu. Chúa là tình yêu và bởi yêu mới dựng nên loài người. Không những Chúa ban tình yêu mà đòi nhân loại phải có tình yêu đáp lại tình yêu. Tình yêu không những chỉ đáp lại mà còn phải giống tình yêu của Chúa, nghĩa là phải thương người.

1.      Sợ Chúa mà giữ đạo thì chưa phải là đạo.

2.      Thờ Chúa để lợi dụng thì chưa phải là đạo.

3.      Giữ đạo nhưng không ra sức sống giống Chúa cũng chưa nói được là giữ đạo.

4.      Có đạo mà còn giữ tâm trạng đố kỵ, ghen tương, tranh chấp, ham danh, thì chưa nói được là giữ đạo.

5.      Giữ đạo mà chưa biết tha thứ cho nhau, thì chưa nói được là biết giữ đạo.

6.      Giữ đạo mà chưa biết đón nhận những khinh bỉ, nhưng tai hại thiên hạ đối xử với mình thì  cũng chưa giữ luật thương yêu tốt.

7.      Tôi có sẳn sàng chết cho người ghét tôi không? Tôi giữ đạo mà thật sự có mến Chúa yêu người như Chúa yêu không?

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu Chúa và yêu người như Chúa yêu.

Lạy Chúa xin dạy chúng con đừng bao giờ thù ghét bất cứ ai và luôn luôn muốn cho mọi người được an lành và hạnh phúc.

Xin cho chúng con giống Chúa để  mỗi ngày mỗi nên như cuộc sống của Chúa.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

MỤC VỤ HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO VÀ HỖN HỢP
(đ. 1125-1129)

1.  Khái niệm:

2.  Mục vụ trước khi cử hành hôn lễ

1.  Điều tra hôn phối

2.  Dạy giáo lý

3.  Xin chuẩn ngăn trở hoặc phép kết hôn

4.  Những điều kiện để được tha ngăn trở hoặc phép kết hôn

Nguyệt san tháng 11 vừa qua, chúng ta đã tìm hiểu về hôn nhân khác đạo và hỗn hợp trong khái niệm và những mục vụ trước khi cử hành hôn lễ. Ở đây, chúng ta cũng nên nhắc lại một cách rõ ràng hơn về những điều kiện cần và đủ để được tha ngăn trở hay ban phép để kết hôn cho những loại hôn nhân nầy. Những điều kiện đó được quy định ở điều 1125 và 1126 là:

1/. Bên Công giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin, và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được rửa tội và được giáo dục trong Giáo hội Công giáo (đ.1125§1);

2/. Bên không Công giáo phải được thông báo về những nghĩa vụ mà bên Công giáo đã cam kết (x. đ.1125§2);

3/. Cả hai bên phải được giáo huấn về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép loại bỏ (đ.1125§3);

4/. Bên không Công giáo phải cam kết cho người bạn đời Công giáo được tự do sống đạo, và cho con cái sinh ra từ hôn nhân của họ được rửa tội và giáo dục trong đức tin Công giáo (HĐGMVN; x.đ.1126);

5/. Bên không Công giáo chưa kết hôn lần nào (x.St. 1,27- 28);

6/. Lý do xin tha ngăn trở hay được phép kết hôn phải chính đáng và hợp lý (đ.1125).

Khi những điều kiện trên đã hội đủ, cha sở mới làm thủ tục xin Đấng bản quyền tha ngăn trở hoặc ban phép kết hôn cho họ.

Lưu ý: Nếu hôn nhân của hai "người lương" đã tan vỡ từ lâu, mà nguyên nhân của sự tan rã không phải để lập gia đình với người Công giáo; một trong hai người nầy xin gia nhập Giáo hội Công giáo, qua bí tích rủa tội, thì họ được hưởng đặc ân đức tin (phaolô) theo nghĩa rộng để lập gia đình mới với người Công giáo. Họ không còn ngăn trở để kết hôn nữa.

3.  Mục vụ khi cử hành hôn lễ

Hôn nhân khác đạo hay hỗn hợp, tuy chỉ có một bên là Công giáo, nhưng Giáo luật đòi hỏi phải cử hành theo thể thức pháp định, nghĩa là thể thức thông thường như bao hôn nhân của người Công giáo: trước mặt vị chứng hôn có thẩm quyền và hai nhân chứng (x.đ.1117-1118).

Vị chứng hôn có thẩm quyền:

Hôn nhân chỉ thành sự khi được kết ước trước mặt vị chứng hôn, là Đấng Bản Quyền địa phương (Đức Giám mục hoặc Cha Tổng Đại diện) hay cha sở, hoặc một linh mục hay một phó tế đã được một trong hai vị trên ủy quyền, và trước mặt hai nhân chứng (đ.1108).

Thẩm quyền để chứng hôn phối thuộc lãnh thổ, do đó, chỉ có Đấng bản quyền và cha sở của đương sự, do chức vụ, mới chứng hôn thành sự cho họ, nếu có ít nhất một trong hai người phải là người thuộc quyền của hai vị trên (x.đ.1111). Vì vậy, hôn phối phải được cử hành tại nhiệm sở của hai vị trên: tại nhà thờ của họ đạo nếu cha sở chứng hôn; bất cứ nhà thờ nào trong Giáo phận nếu là Đức giám mục chứng hôn.

Hai nhân chứng: hai nhân chứng, Giáo luật không đòi hỏi nhiều, họ phải hiện diện cùng lúc với người chứng hôn, là những người đã đến tuổi trưởng thành, có ý thức về việc làm chứng của mình là đủ.

Uỷ quyền chứng hôn: cũng nên nhắc lại một điều mà đôi khi chúng ta quên mất: "Để được hữu hiệu (thành sự), việc uỷ nhiệm năng quyền chứng hôn phải được minh nhiên ban cho những người nhất định; nếu là một sự uỷ quyền riêng biệt, thì có giá trị đối với một đôi hôn nhân nhất định, còn nếu uỷ quyền tổng quát, thì phải ban bằng văn bản" (đ.1111).

Nơi cử hành: như đã nói trên, hôn nhân thuộc quyền lãnh thổ, nên cần phải được cử hành nơi nhiệm sở của mục tử mà mình trực thuộc. Ngoài ra, hôn nhân có liên hệ đến cộng đoàn, xã hội, nên việc cử hành hôn lễ tại họ đạo nơi mình là thành viên của họ đạo đó, nơi mình có họ hàng, bạn bè nhằm dịp để xiết chặt tình nghĩa cộng đồng: mọi biến cố vui buồn của mọi phần tử đều được chia sẻ với nhau, cầu nguyện cho nhau.

Nhiệm sở của vị mục tử mà mình trực thuộc: đối với hôn nhân giữa một người Công giáo với một người được rửa tội ngoài Công giáo thì phải cử hành trong nhà thờ họ đạo, hoặc trong một nhà thờ khác, hoặc trong một nhà nguyện nào đó, nhưng phải giữ quy định của điều 1108 (đ.1118§1), nếu cử hành tại một nơi nào khác thích hợp ngoài những nơi vừa nói trên thì phải có phép của Đấng bản quyền (đ.1118§2); nếu hôn nhân giữa một người Công giáo và một người không được rửa tội (người lương), thì được cử hành trong nhà thờ hoặc một nơi nào đó thích hợp, nhưng cũng phải giữ quy định của điều 1108 (đ.1118§3).

Ngoài ra, nếu xảy ra khó khăn nghiêm trọng trong việc tuân giữ thể thức Giáo luật, Đấng bản quyền địa phương bên Công giáo có thể miễn chuẩn thể thức ấy trong từng trường hợp, nếu cử hành ngoài địa sở của Bản quyền cấp phép, phải tham khảo ý kiến của Đấng bản quyền tại nơi cử hành hôn nhân, và phải giữ một thể thức công khai nào đó để tránh những hôn nhân lén lút (đ.1127§2).

Một lưu ý khác, dù trước hay sau khi cử hành hôn nhân theo Giáo luật, không được cử hành hai nghi thức tôn giáo khác nhau; hoặc là viên chức của hai tôn giáo lần lượt hỏi đôi bạn bày tỏ sự ưng thuận kết hôn (đ. 1127§3).

4.  Mục vụ sau khi cử hành hôn lễ (đ.1128)

Sau hôn lễ cần phải ghi vào sổ hôn phối, sổ rửa tội của bên Công giáo việc cử hành hôn lễ, những chuẩn chước đã cấp, đồng thời lưu giữ giấy ban phép chuẩn đã cấp trong văn khố của họ đạo.

Điều sau cùng nhưng là điều hết sức quan trọng, Giáo hội khuyên nhủ các vị chủ chăn phải liệu sao để người phối ngẫu Công giáo và con cái sinh ra do hôn nhân khác đạo và hỗn hợp không thiếu sự trợ giúp về phương diện thiêng liêng, và để họ chu toàn nghĩa vụ của mình, các ngài phải giúp đôi hôn nhân hiệp nhất với nhau trong đời sống vợ chồng và gia đình. Riêng bên Công giáo phải luôn ghi nhớ lời dạy của Thánh Phaolô: "chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người chồng có đạo..." (1Cr.7,14). 

TRANG LINH MỤC

ĐỜI LINH MỤC, ĐỜI TẬN HIẾN
LINH MỤC, THẦY DẠY HY VỌNG

I. Niềm hy vọng Kitô giáo

- Tin, cậy, mến là ba nhân đức "đối thần", đi chung với nhau, gắn liền với nhau, nói lên ba khía cạnh cơ bản của đời sống kitô hữu. Ba nhân đức này phân biệt, nhưng không tách rời nhau, mỗi nhân đức nhấn mạnh một nội dung. Đức ái nhấn mạnh chỗ đứng của tình yêu Kitô giáo. Đức tin là yếu tố nền tảng của đời sống tín hữu, là điều kiện cơ bản để được ơn cứu rỗi. Còn đức cậy nhấn mạnh khía cạnh lữ thứ của đời sống kitô hữu. Đức cậy hướng chúng ta đến cùng đích của đời sống con người.

- Con người đã được cứu rỗi hay chưa ? Con người đã đạt đến cùng đích cuối cùng rồi hay chưa ? Con người hạnh phúc rồi hay chưa ? Con người có Chúa rồi hay chưa ? (Chúa là hiện tại hay tương lai của con người ?)

- Nếu đức tin nhấn mạnh khía cạnh "rồi", thì đức cậy nhấn mạnh khía cạnh "chưa". Trong thông điệp mới nhất của Đức Thánh Cha "Được cứu rỗi trong hy vọng" (Rm 8,24), ngài nhắc đến lời của thánh Phaolô cho chúng ta thấy rằng "ơn cứu chuộc không chỉ là một điều đã được ban cho, nhưng được cống hiến cho chúng ta như là điều mà ta hy vọng. Chúng ta hy vọng được cứu rỗi. Nhờ hy vọng đó mà chúng ta có thể đối diện với thực tại cuộc sống rất khó khăn, đầy dẫy những thách thức. Dù cuộc đời lữ thứ có gian nan bao nhiêu, ta vẫn chắc chắn sẽ đạt đến mục đích cuối cùng : "Theo đức tin Kitô giáo, sự "cứu chuộc', cứu độ không đơn thuần là một sự kiện. Sự cứu chuộc được tặng ban cho chúng ta theo nghĩa là chúng ta đã được ban cho niềm hy vọng, một niềm hy vọng khả tín, nhờ đó chúng ta có thể đương đầu với hiện tại. Dù là một hiện tại khổ nhọc, chúng ta có thể sống và chấp nhận hiện tại, nếu nó dẫn đến một cùng đích, nếu chúng ta có thể chắc chắn về cùng đích này, và nếu cùng đích này cao cả đến mức có thể biện minh cho những cố gắng trên đường đi" (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 1).

- Đức Thánh Cha cũng cho thấy, tin theo Kinh Thánh thật ra cũng chỉ là hy vọng. Niềm hy vọng Kitô giáo cũng chính là niềm tin Kitô giáo, như thư thứ nhất của thánh Phêrô nhấn mạnh rằng chúng ta hãy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta (1 Pr 3,15). Hy vọng đối lại với thất vọng, hay tuyệt vọng, không có lối thoát. Một cuộc đời không có hy vọng là một cuộc đời không có tương lai, không có lối thoát. Kitô hữu là người có niềm hy vọng, như lời Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI: "Ở đây xuất hiện yếu tố đặc thù của các kitô hữu, đó là họ có một tương lai : không phải họ biết tường tận điều gì đang chờ đợi mình, nhưng họ biết một cách tổng quát rằng cuộc đời họ không kết thúc trong hư vô. Chỉ khi tương lai được bảo đảm như một thực tại tích cực, thì hiện tại mới có thể được sống một cách tích cực. Như thế, giờ đây chúng ta có thể nói rằng : Kitô giáo không chỉ là một "tin mừng" truyền thông một nội dung cho đến nay chưa được biết. Trong ngôn ngữ thời nay, chúng ta có thể nói : sứ điệp Kitô giáo không chỉ "thông tin" mà còn "tác động". Điều đó nghĩa là : Tin Mừng không chỉ truyền thông những yếu tố có thể nhận biết được, nhưng là một sự truyền thông làm phát sinh các sự kiện và làm thay đổi đời sống. Cánh cửa tăm tối của thời gian, của tương lai, đã được rộng mở. Người có niềm hy vọng thì sống cách khác hẳn; một cuộc sống mới đã được ban tặng" (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 2).

- Khi nói về niềm hy vọng Kitô giáo, chúng ta không muốn nói tới một tương lai trần thế hay một lối thoát theo nghĩa thế gian. Nhưng chúng ta muốn đề cập đến "mục đích cuối cùng" của đời người, đến "sự sống đời đời".

- Trong Kitô giáo, hy vọng là hướng tới "tình yêu tuyệt hảo", hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn với Ba Ngôi Thiên Chúa trong tình yêu. Nhờ hy vọng mà tình yêu Kitô giáo không bị ứ đọng, không dừng lại một chỗ, không đầu hàng sự dữ và sự chết, nhờ hy vọng mà tình yêu Kitô giáo có tương lai.

- Cơ sở vững chắc của niềm hy vọng Kitô giáo là "sự Phục Sinh của Chúa Kitô". Vì sự Phục Sinh của Chúa mà không ai trong chúng ta phải đầu hàng sự chết, không ai phải tuyệt vọng. Thần học về hy vọng cũng là thần học về ý nghĩa cuối cùng của sự Phục Sinh.

II. Linh mục, thầy dạy cậy trông và phó thác

- Theo thánh Tôma, chúng ta hy vọng một điều gì khi điều ấy rất khó đạt được, nhưng có thể đạt được. Tất cả những gì khó đạt được nhưng có thể đạt được đều là đối tượng hy vọng của con người. Nhưng mọi sự đều có thể xảy đến và qua đi, những gì khó mấy đi nữa hầu như con người rồi cũng sẽ đạt được, trên bình diện tự nhiên, nhờ khả năng trí tuệ của con người. Đó là những "hy vọng từng phần" mà con người thường nghĩ rằng có thể lắp đầy cuộc sống.

- Trong thực chất, cuộc sống viên mãn của con người không thể đồng hóa với những niềm hy vọng từng phần ấy. Vì đó là điều chỉ có Chúa mới có thể đáp ứng, vì Chúa đã đến thế gian để cho con người được sống và sống viên mãn.

- Sự sống viên mãn là điều con người ước mơ, con người cần, vì đó là hạnh phúc trọn vẹn của con người, nó vượt lên trên sức lực tự nhiên của con người. Nhưng có thể đạt được, vì là ý muốn của Thiên Chúa, do tình thương của Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và khi chúng ta tin ở quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, thì chúng ta có một niềm hy vọng chắc chắn. Niềm hy vọng ấy là niềm hy vọng Kitô giáo, và đó là niềm hy vọng bao trùm tất cả, vượt trên tất cả, nhưng cũng là nền tảng của tất cả. Không có niềm hy vọng này, con người sẽ nhanh chóng thất vọng, và thậm chí tuyệt vọng, vô vọng vì chạm trán phải sự dữ và sự chết.

- Chúa Giêsu là vị ngôn sứ được Chúa Cha sai đến trần gian để dạy cho con người đừng để cho sự dữ và sự chết đè bẹp. Chúa Giêsu dạy cho con người phản kháng, phản kháng sự dữ và sự chết, phản kháng không bằng bạo động, mà bằng tình thương. Tình thương không chấp nhận cho con người nô lệ sự dữ và sự chết (Ý nghĩa "xuất hành"). Tình thương mang tính "phản kháng".

- Tình thương không dừng lại ở phản kháng, nhưng còn hướng tới giải phóng : giải thoát con người khỏi sự dữ và sự chết, đưa con người vào vương quốc của sự sống và tình yêu.

- Đó là những điều mà mọi người ước mong, nhưng người ta chỉ đạt được "một phần", chỉ đạt được trong hy vọng (in spe). Con người chưa nắm chắc đối tượng, nên vẫn lo âu xao xuyến không biết mình có đạt được đối tượng hay không ? Con người sợ hãi vì nguy cơ trước mắt. Con người bị cám dỗ thất vọng, vì thực tế trước mắt, vì có quá nhiều khó khăn để đạt mục đích mình muốn.

- Nói như thánh Phaolô, điều thiện hảo mà chúng ta muốn, ta lại không làm được; điều ác ta không muốn thì ta lại làm. Con người của ta gần như bất lực trước sự dữ trong ta và bên ngoài ta. Nhiều lúc ta bị cám dỗ buông xuôi. Đức Giêsu là vị thầy dạy nhân loại chiến đấu chống sự dữ, chống ác thần. Chính Đức Giêsu, với tư cách là người, cũng đã phải chiến đấu quyết liệt : trong hoang địa, trong vườn cây dầu, trên thập giá. Sự dữ và bóng tối mà Người phải đối đầu, ghê gớm đến nỗi có lúc Người phải thốt lên "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!" (Mt 27,46). Nhưng rồi sau khi chiến đấu hết mình, Người đã hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa : "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46).

- Linh mục cũng là vị thầy giống như Chúa Giêsu, dạy chiến đấu và phó thác. Khoa tu đức học có mục đích dạy cho linh mục cách chiến đấu với bản thân mình, cách chống trả lại các cơn cám dỗ, chống trả lại sự dữ và ác thần. Nó rất cần cho linh mục và cho giáo dân mà linh mục hướng dẫn. Linh mục không học qua chiến đấu, thì làm sao có thể dạy dỗ giáo dân chống trả sự dữ ? (Một số linh mục có khuynh hướng sống buông thả, không chiến đấu, không hãm mình, không hy sinh).

- Đức Giêsu đã nói : "Ta đến không phải đem bình an, mà đem gươm giáo" (Mt 10,34) là cách nói đến "cuộc chiến của người kitô hữu". Lời mời gọi "tỉnh thức và cầu nguyện" cũng là lời kêu gọi chiến đấu để khỏi sa chước cám dỗ. Câu nói "vác thập giá mà theo Ta" (Mt 10,38) chỉ những hy sinh trong đời sống hằng ngày, và những phấn đấu lao nhọc để có thể là môn đệ của Chúa.

- Kitô giáo gắn liền với "chiến đấu". Bỏ "chiến đấu" không còn Kitô giáo nữa. Người ta chỉ có thể chiếm hữu Nước Trời bằng bạo lực. Dĩ nhiên cuộc chiến Kitô giáo không phải là "bạo động" bằng sức mạnh thể lý và trần gian, nhưng là một cuộc chiến vì tình yêu (lotta amorosa).

- Linh mục dạy cho kitô hữu chiến đấu hết mình, nhưng rồi lại dạy cho họ biết "phó thác", biết nương tựa vào Chúa, biết tin tưởng, không quá lo lắng vì chỉ dựa vào sức mạnh của riêng mình. Hệ luận của việc "phó thác" là "bình an". Phó thác là "trao phó cho Chúa, để mặc cho Chúa định liệu"; "ký gởi cho Chúa sự sống của mình, sinh mạng, vận mệnh của mình".

-  Trong lịch sử linh đạo, có những linh đạo nghiêng về phó thác, có những linh đạo nghiêng về chiến đấu. Nhưng hai bên không loại trừ nhau, mà luôn bao hàm nhau. Chúng ta nhấn mạnh "phó thác" dựa vào "sự quan phòng của Thiên Chúa", ta tin Chúa thương ta. Chúng ta nhấn mạnh vào sự chiến đấu, để biểu lộ sự cương quyết bước theo Đức Kitô, đi qua khung cửa hẹp. Phaolô đã dùng hình ảnh "người lính chiến của Chúa Kitô" (2Tm 2,3), người "lực sĩ điền kinh" (2 Tm 2,5) để diễn tả sự chiến đấu cần thiết trong cuộc đời kitô hữu.

-  Cuộc đời của người kitô hữu có nhiều giai đoạn khác nhau. Có nhũng lúc phải chiến đấu nhiều hơn, có lúc khác thì phó thác nhiều hơn. Có khi vừa chiến đấu, vừa phó thác. Nhưng cả sự chiến đấu lẫn sự phó thác của người kitô hữu đều có chung một điểm tựa là "lòng trông cậy" vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Người kitô hữu chiến đấu dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa (Chúa Thánh Thần), cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Người kitô hữu phó thác hoàn toàn cho Chúa, dựa vào sức mạnh của Chúa, trông cậy vào tình thương và quyền năng của Chúa.

-  Linh mục là "người của cậy trông", tất cả những gì linh mục làm là vì đặt hy vọng vào Chúa. Nếu không đặt hy vọng vào Chúa, thì linh mục chẳng làm gì cả, vì không thấy điều gì có ích lợi trước mắt. Vả lại, linh mục không thể ép buộc ai, không thể ép buộc người giáo dân yêu Chúa, tin Chúa, vì đó là những hành vi tự do. Nếu người giáo dân không làm, linh mục cũng chẳng làm gì được, chỉ có cậy trông vào Chúa : việc Chúa làm.

-  Tất cả thừa tác vụ của linh mục đều được thực hiện vì hy vọng và trong hy vọng. Linh mục tin tưởng vào Chúa, cầu xin Chúa cho được như ý Chúa muốn. Linh mục không có một sự bảo đảm trần thế nào, chỉ có sự bảo đảo của Chúa, sự bảo đảm của lời Chúa hứa. Sự bảo đảm của quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa thể hiện cách trọn vẹn nơi sự Phục sinh của Chúa Giêsu.

-  Vì linh mục là "người của hy vọng", nên linh mục là "thầy dạy cậy trông", thầy dạy đặt hy vọng vào Chúa, thầy dạy tin vững vàng vào lời Chúa hứa, thầy dạy nương tựa vào Chúa, bám vào Chúa

 

TRANG TU SĨ

BÀN TAY

"Anh đã nắm được tay em rồi, anh sẽ không bao giờ buông ra nữa". Lời thì thào của Jack khi chạm thấy tay Rose trong tình thế hoảng loạn nguy hiểm của vụ đấm tàu huyền thoại Titanic. Trong khi mọi người đang cố giành giựt mạng sống mình với tử thần thì Jack đã không ngần ngại dùng tính mạng mình để cứu lấy người yêu. Bàn tay xiết chặt bàn tay để tiếp thêm sức mạnh và lòng can đảm cho nhau, một người can đảm chấp nhận hy sinh để cứu một người, còn một người thì can đảm đối mặt với những hiểm nguy gian khó để tiếp tục sống vì và sống cho một người. Do đâu mà họ có được sức mạnh mảnh liệt đó nếu không phải là tình yêu, một tình yêu tuyệt đẹp mà khiến bao người phải khâm phục chảy nước mắt. Tôi chợt nhận ra mình thật diễm phúc khi biết bên mình luôn có một bàn tay thật ấm áp, thật tuyệt vời với sức ảnh hưởng đến cả thế giới hơn 2000 năm qua, bàn tay của Đấng chịu đóng đinh vì tôi, Đức Giêsu Kitô.

Cùng hát với các em thiếu nhi "Thánh Giá hình chữ T, Người nằm giang tay chữ Y, là tình yêu - yêu đến tận cùng...", tôi hiểu rằng Chúa đã yêu tôi từ muôn thủa và tôi có biết bao cơ hội để khám phá tình yêu ấy từ đôi tay trao ban của Đức Giêsu: Đôi tay rộng mở không ngần ngại chạm vào người phong hủi để chữa lành, bàn tay đỡ nâng kẻ bại liệt đứng lên vững bước tiến, bàn tay hồi sinh em bé 12 tuổi, bàn tay lau giọt nước mắt cho bà góa thành Naim khi chạm vào quan tài kéo sự sống lại cho người con trai duy nhất của bà,  bàn tay ân cần rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc ly để dạy bài học yêu thương phục vụ. Rồi cũng bàn tay thánh thiện ấy bị mũi đinh xuyên qua, chịu treo trên cây gỗ cho đến chết tủi nhục, dâng lên Thiên Chúa Cha chính thân mình làm của ăn của uống cho thiêng liêng ban phát yêu thương cho toàn nhân loại. Bàn tay đó vẫn mãi tiếp tục trao ban niềm tin và hy vọng sau cái chết khổ nhục trên thập giá, khi Người trao ban: "Bình an cho các con!". Một thứ bình an bất tận cho những ai được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu của Đấng chiến thắng tử thần.

Là nữ tu Mến Thánh Giá, tôi được mời gọi thông dự vào sứ mạng yêu thương phục vụ của Chúa Giêsu qua đời sống thánh hiến. Tận hiến cho Đấng chịu đóng đinh, bàn tay tôi không được quyền nắm giữ của gì cho riêng mình nhưng cần mau mắn cho Chúa mượn đôi tay để hoàn tất những công việc của Ngài còn đang dang dở "Người tông đồ phải là cánh tay hữu hình và là trung gian của Đức Giêsu".

Do được thừa hưởng di sản tinh thần từ các bậc tiền bối của Hội Dòng qua hơn 200 năm qua, tôi cảm nhận sức mạnh yêu thương từ những bàn tay phục vụ chăm sóc những người nghèo khổ bệnh tật, những bàn tay trao gởi từng gói mì,  túi gạo,  viên thuốc,  hạt đường hay có khi là cây viết,  cuốn tập ... cho những người kém may mắn trong xã hội. Những bàn tay nhiệt tình phục vụ chị em trong lao động âm thầm hằng ngày, những bàn tay êm ái khâm liệm tiễn đưa người chị em về với Chúa... Thật giản dị nhưng ấm áp tình người. Nếu có ai hỏi tôi cảm nghiệm thế nào về đời tu, tôi sẽ mãi trả lời "thật ấm áp!", vì bên tôi luôn có trái tim bao người và một Tình Yêu vĩ đại của Đấng đã chết vì tôi. Lặng nhìn Thánh Giá Chúa, đôi tay bị đóng đinh như vẫn luôn muốn nói với tôi "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".

MTG Cái Nhum

HY VỌNG VÀ CÙNG ĐÍCH ĐỜI TÔI

Lúc còn là một học sinh trung học, đã có lần nhỏ bạn thân hỏi tôi: "Vì sao bạn lại giữ đạo Thiên Chúa?  Ông Giêsu có đem lại cho bạn cuộc sống tốt đẹp không?  Sao mình thấy gia đình bạn vẫn nghèo...?"  Tôi trả lời: "Mình giữ đạo Chúa không phải vì để được lợi lộc trần gian là của cải vật chất.  Nhưng mình tin rằng còn có một cái gì đó sau cuộc sống đời này.  Nhờ ơn Chúa ban, mình được nhận biết Đấng đã tạo dựng nên con người, Đấng đã vì yêu thương mà dùng chính cái chết để đem lại cho con người sự sống bất diệt. Đức tin và niềm hy vọng duy nhất của mình là được sống với Người ở đời sau.  Chỉ có Người là Thiên Chúa thật.  Vả lại, tuy cuộc sống có nghèo, nhưng gia đình mình lại được bình an và hạnh phúc lắm! Vì chúng tôi biết đón nhận tất cả như hồng ân Chúa ban."  

Khi có ý định đi tu, tôi hỏi ý kiến và xin phép Cha Sở, Cha bảo: "Sao lại là Dòng Mến Thánh Giá...?  Vào đó là con phải làm việc cực lắm, ăn uống cũng kham khổ, học vấn cũng thua kém người ta...  Cha không thấy nơi Hội Dòng ấy có tương lai tốt đâu!  Hãy tìm hiểu các Dòng mang tính "quốc tế" mà tu!"  Có lẽ lúc ấy ngài muốn thử tôi mà tôi không biết.

Sau một thời gian tìm hiểu, tôi đã quyết định gia nhập Dòng Mến Thánh Giá.  Tôi đến gặp Cha và xin giấy giới thiệu, Cha hỏi: "Tại sao con lại có quyết định như vậy? Con hy vọng gì nơi Hội Dòng đó?"  Tôi trả lời: "Thưa Cha, con nghĩ rằng, đi tu thì phải có hy sinh và cực khổ một chút.  Đối với con, cái tên "Mến Thánh Giá" nghe cũng hay và có ý nghĩa lắm!  Con chỉ mong muốn được dâng mình cho Chúa trong Hội Dòng này để phục vụ Chúa trong Giáo Phận nhà."  Tuy không hiểu lắm nhưng tôi đã quyết chí giữ lập trường của mình.

Và tôi đã vào dòng.  Thời gian trôi qua, tôi càng thấm thía hơn ý nghĩa của ơn gọi Mến Thánh Giá mà tôi đã chọn.  Trong thời gian huấn luyện, tôi gặp không ít những khó khăn, thử thách, có lúc tôi chán nản, thất vọng và muốn bỏ cuộc.  Rồi thỉnh thoảng, tôi cũng chứng kiến một vài ơn gọi bị rơi rụng giữa chừng, không còn kiên trì với lý tưởng ban đầu nữa...  Nhưng ơn Chúa đã giúp tôi vượt qua.  Chính châm ngôn của người nữ tu Mến Thánh Giá: "Chúa Giêsu Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí con" đã khuyến khích tôi cố gắng từng ngày, để bám lấy lý tưởng mà tôi đã chọn.

Những năm tháng sống trong nhà dòng, tôi được học cách nhìn lên Thánh Giá Đức Kitô Chịu Đóng Đinh mỗi ngày như động lực không thể thiếu cho cuộc đời người nữ tu. Lúc buồn cũng như khi vui, hay cả khi lỗi phạm điều gì, tôi đều nhìn lên Thánh Giá Chúa, để tạ ơn, để tạ lỗi, và nhất là để thấy được tình yêu của Thiên Chúa dành cho tôi.  Nơi đây, tôi có thể cười, có thể khóc như một đứa trẻ trong vòng tay mẹ mà không hề sợ gì. Nơi đây, tôi có thể tâm sự những nỗi niềm thầm kín nhất khi không thể tỏ lộ cùng ai.  Nơi đây, những lúc tôi cảm thấy cô đơn nhất vì không một ai hiểu hay thông cảm cho tôi, thì chính Chúa Giêsu trên thập giá sẽ là nguồn an ủi, là chỗ dựa vững chắc cho tôi. Chính nơi đây, tôi nhận được ơn tha thứ để trở lại cùng Chúa sau những lần vấp ngã. Cũng chính nơi đây, tôi cảm nhận được thế nào là tình yêu và giá trị của tình yêu.  Tình yêu của Đấng yêu thương nhân loại, yêu thương tôi. Và tôi hạnh phúc dâng hiến trọn đời tôi để đáp lại tình yêu của Người.

Đời tu vẫn còn dài, những gian nan thử thách đang chờ đón tôi phía trước, và yếu đuối của kiếp người vẫn theo tôi.  Nhưng với ơn Chúa giúp tôi vững tin hơn.  Giờ đây, tôi dám nói rằng, tôi đã đi đúng đường, đó là chọn Chúa Giêsu Kitô.  "Con hy vọng gì nơi Hội Dòng này?" Nếu hôm nay tôi được hỏi như vậy thì tôi sẽ trả lời một cách xác tín hơn: hy vọng duy nhất của tôi nơi Hội Dòng Mến Thánh Giá này là tôi được Chúa Giêsu Kitô, tình yêu, ơn cứu độ, hy vọng và cùng đích của đời tôi.  Bởi vì không có Chúa Kitô, tôi sẽ không thể biết nguồn cội đích thực của mình, không biết được Thiên Chúa là Cha yêu thương mình.  Và không có Chúa Kitô, chúng ta sẽ không có ơn cứu độ.

TRANG ƠN GỌI

ƠN GỌI LINH MỤC

Đối với cộng đồng Dân Chúa, ơn gọi linh mục là quà tặng Thiên Chúa thương ban cho Giáo Hội nhằm góp phần chu toàn ba nhiệm vụ chính mà Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội: Cùng với Chúa Thánh Thần giảng dạy, thánh hoá và dẫn dắt Dân Chúa trên đường lữ hành nhằm đạt đến sự sống dồi dào. Từ đó, linh mục cùng cộng đoàn Dân Chúa xây dựng một cộng đồng nhân loại mới trên nền tảng giá trị Tin Mừng của Chúa Kitô, nhằm giúp nhau cùng "nên thánh", là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu "Anh em hãy nên hoàn thiện, như  Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Ngoài ra còn có một số người được Thiên Chúa mời gọi cách đặc biệt nên thánh trong ơn gọi linh mục. Để có thể yêu mến đời sống ơn gọi này họ cần phải biết:

1. Linh mục là ai?

Linh mục là "Alter Christus", Alter Christus không phải là một địa vị, một thế lực hay một quyền uy, xong là một ơn huệ mà Chúa thương ban cho Linh Mục qua Bí Tích Truyền Chức Thánh (x. Dt 5,4), vì ơn Cứu Độ của loài người. Nhờ ơn huệ "nhưng không" làm cho con người trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Linh Mục, nhằm phục vụ cho Tin Mừng, cho sự sống và phẩm giá của mọi người. Vậy đời sống linh mục là phải làm sao để chăm sóc và vun tưới cho ơn Bí Tích Truyền Chức Thánh sinh hoa kết quả ngày càng dồi dào cho Dân Chúa.

2. Linh mục phải làm gì?

Để trở thành linh mục, những người theo ơn gọi linh mục phải hiểu đời sống linh mục là làm gì? Trước hết là Lời Chúa mời gọi bước theo Chúa Giêsu, học tập với Chúa, gắn bó với Người, thường xuyên chiêm ngắm mầu nhiệm Tình Yêu nơi Người, nhằm mỗi ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người qua đời sống cầu nguyện vì Chúa Kitô là nguồn sống mới cho đời mục tử của linh mục. Do đó, đời sống cầu nguyện không thể nào được vắng bóng trong đời sống ơn gọi linh mục.

3. Ơn gọi linh mục - hành trình của sự bỏ mình:

Chắc hẳn, sự bỏ mình là một việc không ngừng tập luyện của ơn gọi linh mục nhằm vượt qua những thói quen chai lì, từ bỏ cái khung trong tính hẹp hòi, trong lòng tự kỷ; vì những điều ấy là hàng rào đã làm cản đường bước theo Chúa.  Nhờ sự từ bỏ mà các ứng sinh linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu trong việc đi tìm và thi hành ý Chúa. Ngoài ra, khi biết từ bỏ mà những ứng sinh linh mục luôn ý thức không chạy theo hưởng thụ vật chất và đua đòi thời trang, không nghiêng về khuynh hướng của sự khôn ngoan thế gian xảo quyệt và gian dối, mà để tâm trí sẵn sàng vâng theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trên "Đường Giêsu". Đường ấy, là Đường dẫn đến Chân Lý tròn đầy, là đường dẫn tới tận suối nguồn tình thương bất tử, và là đường dẫn tới tận cõi sống trường sinh.

4. Ơn gọi linh mục - thập giá theo Chúa Giêsu:

Dưới ánh sáng đức tin, Người sống ơn gọi linh mục phải là người môn đệ chấp nhận vác thập giá theo Chúa Giêsu bước trên con đường: lấy tình yêu đáp trả tình yêu, là con đường yêu thương đến cùng, là con đường tình yêu hiến tế để trở nên tình yêu bất tử, nhằm phác họa lại tình yêu hiến tế của Chúa Giêsu trong mọi tình huống, nhất là trong những lúc gặp buồn khổ, khó khăn và thử thách.

Bên cạnh những điểm đã nêu, thiết nghĩ  hành trình ơn gọi linh mục không thể vắng bóng Mẹ Maria, vì Mẹ Giáo hội. Do đó, người môn đệ Chúa còn nêu cao đời sống đạo đức qua việc sùng kính, yêu mến Mẹ Maria và sống noi gương Mẹ để kết hiệp với Chúa Kitô, đó là nguồn sống mới cho đời mục tử trong tương lai.

Ngày nay, trong chiều hướng xã hội hiện đại và hiện tượng tục hoá, đã gây khủng hoảng và là thách đố không nhỏ đối với đời sống con người trên bình diện tự nhiên. Điều ấy không chỉ dừng chân ở đó mà nó còn len lỏi vào cả đời sống đức tin của người Kitô hữu, nó làm ảnh hưởng đến đời sống ơn gọi linh mục trong Giáo Phận và trong Giáo Hội. Vì thế, không ít thanh thiếu niên, và cả những người đang theo đuổi ơn gọi linh mục cũng bị "sốc". khi nghe được chuyện này hay chuyện kia về đời sống linh mục. Ở đây tôi không đề cập đến chuyện "đúng hay sai" mà muốn đề cập hiện tượng đang xảy ra trong ơn gọi linh mục, không dám vơ đũa cả nắm, nhưng "một con sâu làm rầu nồi canh". Từ một con sâu mà ngày nay nhiều người đã nhìn vào đời sống linh mục như là một cái nghề "kiếm cơm" nên đã đánh mất ý nghĩa của sự cao cả trong ơn gọi làm linh mục và bí tích Truyền Chức Thánh. Do đó, chúng ta không nên lẫn tránh sự thật mà chúng ta hãy đối đầu với sự thật và cầu nguyện cho ơn gọi, cầu nguyện cho Địa Phận, cầu nguyện cho Giáo Hội. Biết đâu thực trạng của xã hội đã và đang xảy ra lại là hồi chuông cảnh báo giúp cho những người sống ơn gọi linh mục phải suy nghĩ lại thiên chức của mình sao cho phù hợp với Tin mừng, để tìm lại bóng dáng của vị mục tử đúng như hình ảnh của Đức Kitô linh mục,

Ngoài ra đời sống sống linh mục còn là tấm gương phản chiếu hình ảnh Đức Kitô Mục Tử, là tiếng gọi thiết thực nhất cho việc cổ vũ ơn gọi tu trì trong Họ Đạo, trong Giáo Phận. Đặc biệt là trong giới trẻ ngày nay, khi nhìn vào đời sống linh mục họ nhận ra một "Alter Christus" mà mạnh dạn bước theo Đức Kitô trên con đường dâng hiến với một niềm tin vững mạnh, một lòng mến tràn đầy.

 

TRANG THIẾU NHI

HY VỌNG VỀ CÙNG ĐÍCH

Đừng đợi thấy nụ cười mới tỏ ra tử tế

Đừng đượi được yêu mới tỏ bày sự yêu

Đừng đợi lúc cô đơn mới biết quý bạn bè

Đừng đợi gục ngã mới nhớ đến lời khuyên

"Người nào không biết ngày mai mình sẽ làm gì thì người đó là kẻ khốn khổ" (M. Gorki). Câu nói ấy là kinh nghiệm rất cần thiết cho những người muốn tìm hạnh phúc. Sống cần có hy vọng, sống phải có tương lai. Tương lai mà người ta vẫn nhắm đến thường dừng lại ở một nghề nghiệp ổn định. Với quan niệm thật giản đơn: Cuộc sống cần có việc gì đó để làm, có ai đó để yêu thế cũng đủ rồi.

Thật ra, nếu đặt hạnh phúc đời người vào một công việc ổn định "biết ngày mai mình sẽ làm gì" thì chưa đủ. Người kitô hữu cần đặt hy vọng của mình trong chiều kích cứu độ. Cuộc sống hiện tại giúp được gì cho cuộc sống đời sau của tôi? Hy vọng của tôi có mang lại phần rỗi đời đời hay tôi chỉ mong chờ sở hữu những gì rất thường trong cuộc sống: của cải, địa vị, lợi danh? Vì thế để có hạnh phúc thật không phải tôi biết ngày mai mình sẽ "làm gì" mà là ngày mai tôi sẽ "là gì". Người nào không biết ngày mai mình sẽ là gì thì người đó là kẻ khốn khổ.

Hy vọng để "làm gì"

Hy vọng để "làm gì" là điều đầu tiên con người thường nghĩ đến. Con trẻ vừa tròn năm, trong ngày thôi nôi người nhà đã bày biện trước mặt em nhiều thứ dụng cụ làm việc. Trẻ nào bắt cây thước, hy vọng em lớn lên sẽ là kỹ sư. Trẻ nào bắt cây viết, hy vọng sau này em sẽ là thầy cô giáo. Nếu trẻ bắt nhằm cái bánh có lẽ người nhà sẽ không vui vì nghĩ rằng tương lai của trẻ không chịu làm mà chỉ biết ăn. Nghi lễ ấy cũng vui vui nhưng phản ánh khát mong của người nhà về tương lai của con trẻ.

Sự quan tâm về nghề nghiệp vẫn diễn ra không gián đoạn. Bạn trẻ gặp nhau vẫn thường thăm nhau ngày mai bạn sẽ làm gì. Với người đã trưởng thành người ta vẫn sợ thất nghiệp. Câu giao tiếp đầu tiên vẫn đề cập đến: hiện nay anh chị làm gì? Người ta hy vọng có việc làm không phải tất cả vì đam mê công việc nhưng có khi là do kế sinh nhai, vì chén cơm manh áo. Hy vọng có việc gì đó để làm vẫn là một phần nhỏ trong cuộc sống có nhiều thứ để vươn lên.

Hy vọng để "có gì"

Có một câu nói "cái sở hữu không bao giờ là cái đủ" chính vì vậy mà con người cứ hy vọng có thật nhiều. Từ những giá trị vật chất có gì để ăn, để mặc, để sinh sống người ta còn hướng đến những giá trị tinh thần về danh dự, tình yêu, tình bằng hữu.

Hy vọng để có gì là bước đầu của những hy vọng lớn hơn. Thánh Giacôbê và Gioan theo Thầy Giêsu những mong được ngồi bên tả bên hữu Thầy. Ngay như Phêrô cũng nói lên tâm tình rất thật: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy?" (Mc 10,29) Chúa Giêsu cảm thông sâu sắc nỗi lòng của Phêrô cũng như các môn đệ. Ngài hứa các ông sẽ được gấp trăm những gì các ông từ bỏ.

Đó là phần thưởng hứa ban để các ông được an lòng nhưng thật ra Chúa muốn các ông đi xa hơn nữa. "Các con hãy vui mừng vì tên của các con đã được ghi trên trời" (Lc 10,20). Do đó, dẫu tôi có nhiều của cải, có nhiều tài năng, ơn nói tiên tri, ơn làm phép lạ... tất cả là những phương thể Chúa dùng để ta đạt được chính Chúa mà thôi.

Hy vọng để "là gì"

Ơn gọi mỗi kitô hữu vào đời không phải để làm gì nhưng được mời gọi trở nên là con Thiên Chúa. Cuộc sống ai cũng có hy vọng nhưng phải chăng người ta dừng lại quá nhiều những hy vọng mang tính hiện sinh còn hy vọng về cùng đích đời người thì rất ít người quan tâm.

Ta bước vào đời mang nhiều tự vấn: tôi sẽ làm gì, tôi cần có những gì, tôi xử trí cách nào? Chứ có mấy người tự hỏi tôi sẽ là người thế nào đây? Ngày mai con người tôi trở nên thế nào đây? Cùng đích của tôi là gì? Thế nên có nhiều nghịch lý luôn diễn ra trong cuộc sống. Người ta làm giàu dễ hơn, nhanh hơn nhưng đầu tư cho nhân cách lại ít hơn. Tài sản thì nhiều nhưng nhân bản thì ít. Người ta thích kéo dài tuổi thọ nhưng lại không sống đúng với ý nghĩa của cuộc sống. Người ta vẫn cố gắng làm sạch không khí nhưng lại để tâm hồn bị vẩn đục. Người ta học được nhiều cách kiếm sống nhưng lại chưa học được cách sống.

Hy vọng đôi khi đánh lừa con người khi chỉ dừng lại những giá trị chóng qua, có khi dẫn con người đi lạc hướng khi bất chấp mọi điều để đạt được khát mong. Do đó mỗi người phải biết hướng nhìn theo Đức Kitô và sống theo Ngài thì sẽ không lạc lối. Ngài sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Ngài luôn ở trong Cha, gặp gỡ Cha, làm việc của Cha và trở về cùng Cha.

TRANG GIỚI TRẺ

Cuộc sống của con người sẽ không có tương lai, sẽ trở nên hoang mang bất định nếu không có định hướng. Định hướng ấy được đặt trên nền tảng niềm tin và hy vọng. Đức Kitô chính là điểm tựa vũng chắc cho người kitô hữu.

Do hậu quả của tội nguyên tổ, con người đã trở nên bất xứng trước nhan thánh Chúa. Cũng chính do tội lỗi mà con người đã tự hủy diệt tương lai của chính mình. Dầu vậy, không vì thế mà Thiên Chúa bỏ rơi con người. Thiên Chúa đã ban chính Con Một mình xuống thế làm người để cho con người biết rằng họ vẫn còn tương lai rực sáng. 

Trong những lời cáo biệt trước khi đi vào cuộc tử nạn Người đã an ủi và hứa với ta rằng:

"Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nàh Cha Thầy có nhiều chổ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chổ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chổ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó"  (Ga 14,1-3).

Đây là những lời phát xuất từ tình thương vô bờ bến của Đức Kitô, Đấng chúng ta tôn thờ. Một lời hứa - một bảo đảm cho một tương lai chắc chắn và an toàn cho những ai biết đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.

Người trẻ là người của tương lai. Nơi người trẻ ấp ủ nhiều mộng ước và hoài bảo để vun đắp cho cuộc đời mình. Nhưng thực tế không phải tất cả những người trẻ đều tích cực vun đắp để cuộc đời mình ngày càng tốt đẹp hơn.

Hơn thế nữa, ngày nay người trẻ còn phải đương đầu với nhiều cám dỗ. Những cám dỗ ấy làm cho không ít bạn trẻ hoang mang, lo sợ, thậm chí nghi ngờ và chán nản cuộc sống. Từ đó, họ có một lối sống buông thả bất chấp tất cả. Thật đáng thương cho những ai lâm vào tình cảnh như thế.

Rất may mắn cho người trẻ Công giáo vì chúng ta có một điểm tựa bảo đảm cho tương lai của mình. Hãy đặt tất cả niềm tin và hy vọng của mình nơi Đức Kitô chúng ta sẽ không thất vọng. Chính Người đã nói: "Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu" (Lc 21,33).

 

TUỔI TRẺ - ĐỨC TIN - CUỘC SỐNG

BẠN NGHĨ GÌ VỀ VIỆC PHÁ THAI VÀ VỀ CÁC TRẺ EM SINH RA TRONG ỐNG NGHIỆM?

Trong trường hợp thứ nhất, người ta không muốn có con. Còn trong trường hợp thứ hai, người ta lại muốn có con với bất cứ giá nào.

1. Quyền được sống

Tháng 9.1981, tại Quốc hội Pháp, án tử hình được huỷ bỏ. Bộ trưởng tư pháp đã đắc thắng công bố: "Trên đất nước chúng ta, máu người Pháp sẽ không còn đổ nữa!"

Thật là mỉa mai. Chỉ mới trước đó ít lâu, Quốc hội cũng đã bỏ phiếu tán thành việc phá thai. Giáo sư Grasse, chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học, viết cho Tổng thống nước Cộng hoà Pháp như sau: "Trong đất nước chúng ta, án tử hình sẽ chỉ được huỷ bỏ ngày nào người ta mạnh mẽ cấm đoán việc tự ý phá thai... Xin các ngài hãy để cho các tạo vật vô tội ấy được sống, như các ngài đang để cho các tên giết người tệ hại nhất được sống vậy !"

Quyền đầu tiên của con người là quyền sống. Và lúc sự sống bắt đầu xuất hiện cũng là lúc bắt đầu có hết mọi quyền. Phút bắt đầu ấy khởi sự từ khi con người được thụ thai. Nền tảng để ta dựa vào mà tranh đấu cho sự công bằng là đó.

Giáo hội luôn tin tưởng rằng sự sống con người, cho dù yếu ớt và đau khổ, vốn là quà tặng vĩ đại của Thiên Chúa nhân từ. Giáo hội nhất quyết đứng về phía sự sống.

Ngay từ đầu, cộng đoàn Kitô hữu, noi theo gương của Đức Kitô và của tình yêu mà Người dành cho các trẻ nhỏ, luôn can đảm đối đầu với thế giới ngoại giáo bằng cách bênh vực giá trị của sự sống con người, dù nó chưa được sinh ra. Giáo hội luôn mạnh mẽ phản đối việc phá thai cũng như giết các hài nhi. Cũng chính vì nhân danh các quyền con người mà Giáo hội ngày nay vẫn không ngừng tranh đấu. Công đồng Vatican II đã nói: "Người ta phải hết sức chăm chú gìn giữ sự sống ngay từ lúc thụ thai: phá thai và giết hài nhi là những tội ác ghê tởm". 

2. Những kiệt tác đang bị lâm nguy

Chính lúc thụ thai là lúc một sự sống mới bắt đầu. Khoa học hiện đại nói với chúng ta rằng, ngay từ khi tế bào đầu tiên xuất hiện, đứa trẻ đã được hoạch đinh với mọi tiềm thể của nó. Nhà sinh học lừng danh Jean Rostand luôn nhắc nhở: "Con người bắt đầu có mặt từ khi trứng thụ tinh".

Trứng đã thụ tinh là một kiệt tác của trời đất. Ngay từ lúc trứng ấy hình thành, một con người mới, tách biệt khỏi người mẹ, bắt đầu cuộc sống riêng của mình. Ngay từ lúc thụ thai, con người đã được hoạch định một cách đầy đủ, được hưởng toàn bộ các yếu tố di truyền, không chỉ ở phần chính yếu để trở thành một con người, mà còn ở các đặc tính phụ thuộc nữa, như màu tóc, màu mắt chẳng hạn.

Hẳn nhiên là con người bé bỏng này không sống độc lập: nó cần chất dinh dưỡng nơi mẹ mình. Nhưng cả khi đã chào đời, có đứa trẻ thơ nào độc lập đâu? Tuy nhiên, trứng đã thụ tinh tự lập đến nỗi người ta có thể ghép nó vào tử cung của một người khác không phải là mẹ nó, nó vẫn lớn lên mà không hề bị thay đổi các yếu tố di truyền đã có ngay từ phút đầu. Ngay từ phút đầu tiên ấy quả đã có một sinh vật thuộc giống người, rất biệt lập. Thật vậy, không phải người mẹ tạo nên đứa con, mà đứa con tự tạo nên nó, trong và cùng với mẹ mình.

Phôi thai càng không phải là một phần nối dài của thân thể người mẹ, một sự phát triển quá mức từ thân xác người mẹ, như kiểu một thứ ung bướu vậy. Người mẹ không thể nói: cái bụng tôi đang mang đây là của tôi. Người ta đã có thể chứng minh rằng không chỉ có sự trao đổi dưỡng chất giữa người mẹ cho thai nhim, mà cũng còn có sự trao đổi ngược lại từ thai nhi sang mẹ mình. Vậy là có hai con người. Thậm chí những yếu tố ngoại lai không thích hợp có thể bị đào thải một cách thẳng thắn. Đây quả là một cơ thể khác lạ với cơ thể của người mẹ.

3. Mỗi người là một hữu thể độc nhất và linh thiêng

Mỗi sự sống mới được hình thành "trong lòng mẹ" như thế không phải là sự sống của một hữu thể nhân linh còn ở trong tiềm thể, mà là một hữu thể nhân linh thực sự với các tiềm năng của nó.

Các tiềm thể này phát triển tạo nên một tiến trình rất liên tục. Sự sống con người là một đơn vị thống nhất. Không ai có thể phân biệt cái thai ở tuần thứ tư, thứ tám, thứ mười một, thứ hai mươi và nói rằng: "Chính lúc này tôi mới khởi sự là mình".

Hẳn nhiên việc chào đời là một biến cố quan trọng trong lịch sử đời ta. Nhưng để mở đầu trang sử này, ta phải quay trở về lúc mình được thụ thai. Con người hiện hữu, như một hữu thể có một không hai trong loài người ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai. Cho dù cực kỳ bé nhỏ, nhưng không vì thế mà nó bớt được tự lập đi, có một hướng đi rõ rệt mà hệ di truyền đã vạch ra cho nó. Không có gì sẽ làm thay đổi hệ di truyền này được, vì chẳng có gì sau này được thêm vào di sản đầu tiên của thai nhi.

Một bà mẹ có 6 đứa con đã đưa ra một bằng chứng rất xúc động: "Khi người ta hỏi tôi: 'Bà chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện phá thai ư?' Tôi đưa cho họ xem tấm hình của nửa tá con và trả lời: 'Theo quý vị thì tôi nên giết đứa nào trong mấy đứa này?"

Một bác sĩ phụ khoa đã có một phương pháp riêng để khuyên can người phụ nữ khỏi phá thai. Ông cho phụ nữ ấy nghe qua ống nghe nhịp tim của thai nhi. (Quả tim đã thành hình từ ngày thứ 26), rồi nói với bà: 'Bà có muốn làm cho quả tim này ngưng đập không?".

4. Phá thai, một sự phân biệt đối xử bất công

Những gì hợp pháp chưa hẳn là những gì hợp với luân thường đạo lý.

Cách đây 150 năm, ở nước Mỹ, người da trắng có quyền mua bán các nô lệ da đen như mua bán súc vật... Đó là điều hợp pháp. Nhưng thử hỏi điều ấy có xứng với con người không? Ngày nay, trên thế giới thiên hạ đang tống giam nhiều người vì các quan điểm tôn giáo hay chính trị của họ... Đó là điều hợp pháp. Nhưng phải chăng đó cũng là điều hợp luân thường đạo lý?

Phá thai chắc chắn là một trong những điều bất công triệt để nhất mà người ta có thể phạm đối với con người.

Đó là chà đạp quyền hiện hữu, là cái quyền tiên quyết và không thể thu hồi, mà mọi người đều được hưởng.

Phá thai còn trở nên một điều bất công trầm trọng hơn, vì con người đang nằm trong lòng mẹ kia là một kẻ vô tội không có khả năng tự vệ, và vì nó bị trừ khử bởi chính những người đã làm cho nó xuất hiện trên đời, và bởi những người có sứ mạng bảo toàn sự sống, như các nhân viên y tế chẳng hạn.

Phá thai là một sự xúc phạm nhân phẩm của một con người đã có đầy đủ mọi quyền lợi, dù chưa thể hành xử các quyền lợi ấy. Luật lệ nước Pháp xem đứa bé sắp sinh ra như một pháp nhân ở dạng tiềm thể, vì nó có thể thừa kế cha mình, nếu ông chết đi trước khi nó được sinh ra. Điều 725 trong bộ Dân luật nói rằng đứa bé ấy chỉ cần "đậu thai" là đủ để thừa kế rồi.

Phá thai là một sự dữ cho xã hội. Không thể có chuyện châm chước đối với nguyên tắc tôn trọng sự sống con người. Nếu không, ta đã phân chia ra 2 loại người: một loại đang sống, một loại có thể trừ khử,  Nếu theo quan điểm này, thì tại sao ta không khai trừ luôn cả những người lớn bị tật nguyền? Đời họ có đáng sống chăng? Khoa học không thể giải đáp được. Chỉ có tình thương của cha mẹ mới có thể đưa ra câu trả lời mà thôi. Ai cũng biết rằng đứa trẻ yếu nhược hay dị dạng vẫn cảm thấy hạnh phúc nếu được ta yêu thương. Chỉ gọi là đã tự trọng khi mình cũng biết tôn trọng kẻ khác.

Hơn nữa, phá thai là hoàn toàn không tốt cho người mẹ, vì nó thường gây chấn thương di hại suốt đời bà. Một nhà khoa sản tuyên bố: "Việc đoạn thai một cách hợp pháp thường tác hại đến người phụ nữ hơn là giúp ích cho mẹ tròn con vuông, dù đứa con này được sinh ra ngoài ý muốn và trong những điều kiện thường khắc nghiệt."

Câu hỏi đích thật phải nêu ra không phải là "Sự sống con người bắt đầu ở đâu và lúc nào?" mà chính là "Tôi nhân danh điều gì hoặc nhân danh ai để định đoạt cho kẻ khác được sống hay phải chết?".

Đối với người tín hữu, việc từ chối phá thai còn mang một chiều kích tôn giáo: nó nói lên rằng sự sống con người, suy cho cùng là một ân huệ của Đấng Tạo nên sự sống, là một sự sống mà ta phải đón nhận và kính trọng. Đối với người Công giáo, phá thai chính là trừ khử một con người, là một hành vi giết chóc, một tội nặng chống lại Thiên Chúa và con người. Thai nhi đã là một tạo vật của Chúa. Nó có một ơn gọi thần linh.

(Còn tiếp)

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt
Imprimatur:  Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990
Nguồn: dunglac.org

Mọi ý kiến, thắc mắc của các bạn trẻ về đức tin và luân lý có thể thể gửi về cha đặc trách giới trẻ theo địa chỉ  dưới đây để tham vấn:

Cha Tôma Nguyễn Ngọc Tân
Nhà Thờ Chánh Toà Vĩnh Long
141, Lê Thái Tổ, P. 2 - Tp. Vĩnh Long

Email: gioitrevinhlong@gmail.com

TRANG GIA ĐÌNH

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói  với các bậc Cha Mẹ: "Hãy Đưa Trẻ Em Ra Ngoài Thiên Nhiên!"

Castel Gandolfo, Ý, 10-7-2011 -  Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích các bậc cha mẹ dạy cho con cái biết quý yêu thiên nhiên.

ĐTC đưa ra lời mời gọi này trưa nay sau khi đọc kinh Truyền Tin cùng với các đoàn tín hữu hành hương tụ tập ở lâu đài mùa hè của ngài ở Castel Gandolfo.

Khi lên tiếng với các tín hữu nói tiếng Pháp, ngài nói: " Ta muốn khuyên anh chị em trong thời gian nghỉ hè này hãy làm cho tinh thần được phấn chấn lên bằng cách chiêm ngưỡng những vẻ đẹp huy hoàng của tạo vật ."

Ngài còn nói: " Các bậc cha mẹ hãy dạy cho con cái biết nhìn xem thiên nhiên, tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên như tặng phẩm diễm lệ hằng nói lên sự cao cả vĩ đại của Đấng tạo hoá!"

Ám chỉ đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó Chúa Giêsu nói về dụ ngôn người gieo hạt giống, ĐTC nói : "Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ của thiên nhiên để giải thích cho các môn đệ Ngài về các mầu nhiệm Nước Trời."

"Ước chi những hình ảnh Ngài sử dụng trở nên quen thuộc với chúng ta," - ĐTC nói - "Chúng ta hãy nhớ rằng thực tại thần linh được dấu ẩn trong đời sống thường ngày của chúng ta như hạt giống dưới mặt đất. Ước mong hạt giống ấy sẽ trổ sinh hoa trái nơi chúng ta! Ta chúc tất cả anh chị em một Chúa Nhật tốt lành!"   

 Uông Đại Bằng  chuyển ngữ từ TTX Zenith

 TRANG GIÁO LÝ VIÊN

Bài 12. CHUẨN BỊ BÀI GIÁO LÝ(giáo án)
CHO THANH THIẾU NIÊN (từ 12-25 tuổi)

I.       Chương trình chung:

1.      Mỗi bài giáo lý trong độ tuổi này là một phần của chương trình chung kéo dài trên 3; 6; 12 tháng... Điều này rất cần thiết, vì nó giúp ta thấy rõ công việc sẽ đi tới đâu và phải làm những gì trong hiện tại và tương lai.

2.      Mỗi chương trình là một chặng đường dẫn sâu vào mầu nhiệm để biến cải cuộc sống hầu quy thiện. Vì thế, phải có tính đánh động lòng thiếu niên cho nên tốt hơn.

3.      Phải phác hoạ một chương trình chung:

A.    Chương trình theo đòi hỏi nhu cầu luận lý:

Ví dụ: Giáo hội:

a.       Mầu nhiệm Giáo hội:

-          Thành lập Giáo hội.

-          Bản chất Giáo hội.

-          Đặc tính Giáo hội.

-          Sinh hoạt của Giáo hội trong thế giới.

b.      Sứ mệnh của Giáo hội:

-          Sứ mệnh truyền giảng (ngôn sứ / tiên tri).

-          Sứ mệnh thánh hoá (tư tế).

-          Sứ mệnh quản trị (vương giả).

Trình bày theo lối này thoả mãn được đòi hỏi về lý trí nhưng chỉ thích hợp cho người lớn.

B.     Theo nhu cầu tâm lý:

-          Người ta thường nghĩ gì về Giáo hội? Giáo hội là gì?

-          Chúng ta làm gì trong Giáo hội? Giáo dân tham dự vào chức vụ tiên tri, tư tế, vương giả thế nào?

-          Giáo hội đồng hành với thế giới như thế nào?

Lối trình bày này phù hợp với nhu cầu tâm lý thiếu niên tuy cần có giáo thuyết, nhưng mở đầu bằng những vấn đề cụ thể gây chú ý và thích thú.

II.    Xác định phương hướng của mỗi bài:

Giáo lý viên phải xác định mình phải trình bày vấn đề này theo lối nhìn nào? Đó là xác định phương hướng căn bản của bài giáo lý.

Ví dụ: Đề tài "Bí tích Thánh Thể"

Rõ ràng đường hướng căn bản của bài giáo lý là: trình bày bí tích Thánh Thể như là một phương thế hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em.

1.      Theo lối "Huấn giáo khoa" (thích hợp với thanh niên)

Bài giáo lý nhằm chủ đích trình bày chân lý nhiều hơn. Phải nắm chắc ba điểm này khi soạn bài giáo lý.

a. Giáo thuyết về vấn đề này như thế nào?Nghĩa là Thánh Kinh, Giáo hội, thần học nói gì và giải quyết như thế nào?

b. Vấn đề liên quan cụ thể đến người nghe như thế nào?

-          Học viên hiểu thêm Chúa Kitô như thế nào?

-          Soi sáng gì, giải đáp ra sao cho người tín hữu?

c. Cần trình bày vấn đề diễn tiến ra sao? Bài chia làm mấy phần? Theo thứ nào cho dễ hiểu? Dựa vào những sự kiện nào?

2.      Theo "Huấn giáo tiên tri" (thích hợp với thiếu niên-sống động)

Lối này nhằm lay động tâm hồn và hoán cải cuộc sống, chủ đích giáo dục con người toàn diện với tuổi thiếu nhi, thiếu niên.

Theo lối này, giáo lý viên đóng vai trò chứng nhân, tức là người đã sống (hơn là lập là bài đã có sẵn của người khác). Ba câu hỏi định hướng để giáo lý viên chuẩn bị bài kiểu giáo huấn này là:

a. Tôi phải loan mừng như thế nào? Tức là đề cao Tin mừng phải loan truyền nhắm vào tâm hồn hơn là trí tuệ.

b. Tin mừng này liên quan đến người nghe như thế nào? Nghĩa là nó có đáp ứng ước vọng sâu xa của các em không?

c. Chính tôi có sống Tin mừng ấy không? Nghĩa là nỗ lực hoán cải đời sống phải bắt đầu từ bản thân giáo lý viên. Khi chuẩn bị bài theo giáo huấn tiên tri này, chính giáo lý viên phải kiểm điểm đời sống của chính mình.

III. Soạn thảo bài giáo lý:

1.      Nên viết thành văn như là một giáo án.

Điều này có một lợi điểm: tránh được lối ứng khẩu, kém mạch lạc, nội dung nghèo nàn. Vì khi viết ta phải suy nghĩ, sắp xếp ý tưởng, loại bỏ cái không cần thiết, không lạc đề.

2.      Viết bài giáo án thế nào?

Chia cuốn vở thành 2 cột A và B. Cột A rộng hơn vì bài dài dễ nói. Cột B rộng hơn để tóm cho học viên chép (chừng 10-11 dòng kẻ cho bài nói lâu một giờ), bài viết ngắn gọn, dễ hiểu: chọn từng chữ, từng câu.       

SỐNG ĐẸP

Tình yêu là cốc nước trắng

Một chàng trai đưa cô bạn gái thân vào quán uống nước. Sau khi người phục vụ đặt hai cốc nước trắng lên bàn và đợi thì cô gái chợt đặt ra một câu hỏi:           
- Đố bạn Tình yêu là gì...       

Chàng trai mỉm cười quay sang cô phục vụ và nói:


- Chị cho em một ấm trà, một cốc cà phê đen, một cốc cà phê sữa, một ly rượu vang và một ly champagne.         


Sau khi mọi thứ đã được mang ra, chàng trai lấy ấm trà và uống chén đầu tiên. Anh ta nói:           


- Tình yêu như ấm trà này. Khi ta uống nước đầu sẽ rất đậm đà, nước thứ hai sẽ dìu dịu thanh thanh. Còn nước thứ ba thì sao...


Tình yêu không như ấm trà bởi sau nước thứ ba ấm trà sẽ không còn hương vị ban đầu.    


Anh ta lại nhấp một ngụm cà phê đen và nói:


- Tình yêu mang hương vị của cốc cà phê này. Lúc đầu có thể phải trải qua vị đắng nhưng dần dần vị ngọt và thơm sẽ ngấm dần vào mỗi người.  


- Nhưng tình yêu không như cốc cà phê sữa. Uống cà phê sữa ta sẽ cảm thấy ngay vị ngọt, vị ngọt của nó đến rất nhanh và đi rất nhanh. Còn tình yêu không như vậy.


Dứt lời anh ta đổ cốc cà phê ấy đi và nói:     


- Tình yêu như ly rượu này, nó thật nồng nàn, ấm áp và êm đềm.


Anh ta lại uống ly champagne.          


- Không! Tình yêu không thể là thứ nước khai vị chua loét này được.


Chàng trai lo lắng vì không tìm được câu trả lời. Bất chợt anh ta nhìn thấy cốc nước trắng trên bàn. Anh ta reo lên.


- Đúng rồi, hãy nhìn cốc nước kia, nó thật tinh khiết và giản dị. Rượu, cà phê và trà cũng phải bắt nguồn từ nước. Tình yêu cũng như vậy, cái nồng nàn, ngọt ngào, êm đềm và cay đắng cũng phải xuất phát từ lòng chân thành và những điều giản dị nhất. Bạn ạ!         


Tình yêu là cốc nước trắng.   


Cô gái ngồi im, đôi mắt mở to.          


Và rồi cô từ từ nhấc ly nước lên và từ từ đặt vào tay chàng trai.


Chàng trai đã hiểu rằng, anh ta đã có một câu trả lời đúng...

Nguồn: songdep.xitrum.net

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Nuôi hoài không lớn!

Tư tưởng ỷ lại cha mẹ, anh chị đã khiến nhiều người bị "suy giảm sức đề kháng" trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống.

Cách nay chưa lâu, vừa đi làm về đến nhà (phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức - TPHCM), tôi đã thấy một cái rạp to đùng dựng lên ở khoảng sân chung giữa mấy nhà. Chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì thím Tư nhà bên cạnh đã lên tiếng: "Ngày mai đám cưới của thằng Thành, tụi bây sang chơi nghen". Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Hỏi ra mới biết hai đứa đã "ăn cơm trước kẻng", cô người yêu của Thành đã có bầu.

Sợ con cực khổ

Thành là con trai út của thím Tư, trên cậu có 2 người chị và một anh. Vì là út, lại ốm yếu nên Thành được ba mẹ và anh chị cưng như vàng ngọc, không phải làm việc gì; thậm chí việc ăn, ngủ cũng được các chị lo. Công việc của Thành là ăn, học và chơi. Nhưng học đến lớp 10, Thành đột ngột tuyên bố "nghỉ học" vì không thích đi học nữa! Chú thím Tư cũng đồng ý vì suy đi nghĩ lại trong nhà cũng chẳng có ai học hành tới đầu, tới đũa gì. Thấy Thành suốt ngày lêu lổng, nhiều người gợi ý cho cậu ta đi học nghề. Nhưng mỗi lần nghe nhắc chuyện này, thím Tư lại gạt đi: "Nó ốm yếu, làm không nổi đâu".

Cho đến một hôm, Thành về nhà thông báo: "Con cưới vợ, Linh có bầu rồi". Thế là đám cưới diễn ra chớp nhoáng. Nhưng từ ngày cưới vợ, cuộc sống của Thành cũng vẫn vậy. Sáng, 9 giờ thức dậy, tắm táp, tỉa lông, giũa móng cho mấy con gà chiến rồi đi đến tối mịt mới về. Vợ Thành cũng không có nghề nghiệp gì, hết đi ra rồi đi vào với cái bụng bầu. Có người bảo thím Tư cưng con quá nên nó hư, thím lại gạt đi...

Chuyện gì cũng réo "mẹ..."

Mới đây, chị đồng nghiệp của tôi bức xúc: "Chịu hết nổi cô em dâu rồi. Nhà hết gạo, hết gas, nó cũng gọi mẹ. Thậm chí, con nó hết sữa, hết tã... cũng réo mẹ". Chị đồng nghiệp của tôi nhà ở đường Tô Hiến Thành, quận 10-TPHCM, gia đình rất khá giả, vì vậy - Luân - cậu em út của chị cũng thuộc hàng "thiếu gia".

Chị kể học hết trung cấp, Luân vào làm việc tại một hãng taxi nhưng chưa được bao lâu thì bỏ việc "vì cực, bị sếp đì". Rồi Luân đòi cưới vợ. Mẹ chị bạn tôi mừng ra mặt: "Có vợ, có con, tự khắc nó sẽ trưởng thành". Nào ngờ, lấy vợ rồi, hằng ngày, hai vợ chồng cứ đi cà phê, dạo phố, mua sắm. Về tới nhà thì cơm nước đã có sẵn; hết tiền thì réo "mẹ...". Lúc vợ Luân chuẩn bị sinh con, cả nhà phải xúm vào sắm sửa từ quần áo đến tã lót. Nay đứa bé gần 2 tuổi mà vợ chồng Luân vẫn vô tư vì "mọi thứ đã có mẹ lo"!!!.

Gặp chúng tôi mới đây khi đến đăng ký tìm việc tại Văn phòng Hỗ trợ việc làm Báo Người Lao Động, anh P.V.M, 32 tuổi, than thở: "Nếu tôi đừng quá dựa dẫm vào gia đình thì đâu đến nỗi. Ba tôi là giám đốc công ty. Mấy tháng trước, ông đột ngột qua đời, để lại một khoản nợ lớn; mẹ tôi phải bán hết nhà cửa vẫn không đủ trả nợ. Bây giờ tôi phải chạy vạy, xin việc khắp nơi mà chưa có chỗ nào nhận. Khổ lắm!".

Thạc sĩ tâm lý Nguyễn Hữu Long: Đừng để tình thương trở thành con dao hai lưỡi!

Giáo dục gia đình đóng một vai trò quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Thương con, lo lắng cho con là cần thiết nhưng đừng để tình thương trở thành con dao hai lưỡi khi xem con cái là món đồ trang sức quý giá, dễ vỡ để từ đó ra sức gìn giữ, bảo bọc, sợ người khác làm bể hay lấy trộm đi. Khoa học tâm lý cho thấy một trong những yếu tố để thành công là khả năng tự lập. Hãy cho con được va chạm, trải nghiệm thực tế, trang bị cho con những kỹ năng sống cần thiết để con tự tin vào đời bằng chính khả năng của mình vì cha mẹ đâu thể sống đời với con!

Ngân Hà (nld.com.vn)

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

THẾ NÀO LÀ "CĂN TÍNH KITÔ HỮU" ?

Theo Thánh Phaolô, qua Phép rửa, chúng ta được thanh  tẩy để thuộc về Đức Kitô  và "đều  mặc lấy Đức Kitô" (x.Gl 3:27). Đó là "căn cước Kitô" (Christian identity) hay nói cách bóng bẩy  là "căn tính Kitô" của người tín hữu chúng ta trước các tạo vật khác chưa được tái sinh qua Phép rửa để thuộc về Đức Kitô. Căn cước này trước hết  chỉ rõ  ân sủng rất phong phú mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta trong Đức Kitô vì nhờ "máu Người đổ ra mà chúng ta được cứu chuộc." (x.Ep 1:6-7). Tuy nhiên,  chúng ta phải  tích cực cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô thì ân sủng kia mới trở thành viên mãn chung cuộc cho ta được .Nghĩa là không thể chỉ hãnh điện về nguồn gốc cao quí này mà quên thực trạng con người vẫn yếu đuối phải đương  đầu với bao thách đố, đòi hỏi ơn thánh của Chúa và thiện chí cộng tác của con người để đứng vững và thăng tiến siêu nhiên hầu được cứu rỗi. Nói khác đi,  căn cuớc trên chỉ nhắc cho chúng ta luôn nhớ chúng ta thuộc về Đức Kitô vì đã được "mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được chỗi dậy với  Người ,vì tin tuởng vào quyền năng của Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết." (Gl 2:12).

Nhưng  "mặc lấy Chúa Kitô"  hay có "căn tính Kitô" chỉ là cách nói bóng bẩy về ân sủng và vinh dự được kết hơp với Chúa Kitô, được trở nên giống Người nếu chúng ta dám sống và nói được như Thánh Phaolô rằng : "Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyết vời là được biết Đức  Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rơm rác để được Chúa Kitô và kết hợp với Người." ( Pl 3:8).

Được biết và kết hợp với Chúa Kitô không có nghĩa là có "cùng thiên tính" với Người trong phạm trù bản thể. Lý do như đã giải thích trong bài trước  là chỉ Ba Ngôi Thiên Chúa có chung một thiên tính (consubstantialis) mà thôi. Riêng Chúa Kitô chia sẻ nhân tính với nhân loại vì là Con Người, nhưng không chia sẻ "thiên tính" với loài người chúng ta. Xin nhấn mạnh lại điều quan trọng này để đừng ai không hiểu biết chắc ch?ên mà cứ nói liều rằng con người có chung thiên tính với Thiên Chúa hay với Chúa Kitô.

Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là được mang căn cước Kitô mà phải sống trọn vẹn với tất cả ý nghĩa của vinh dự này trên thực tế. Nghĩa làphải sống và chết như Đức Kitô thì mới trở nên đồng hình đồng dạng với Người và chung phần vinh phúc với Người trong Vương Quốc mà Người hiển trị.

Thật vậy, "mặc lấy Đức Kitô" trước hết có nghĩa là ưu tiên phải tìm kiếm và  thi hành ý muốn của Chúa Cha, một điều quan trọng nhất mà Chúa Giêsu  đã nhấn mạnh với  các môn đệ xưa kia: "Ai là mẹ tôi ?  Ai là anh  em tôi ? Rồi Người chỉ tay vào các môn đệ và nói: " Đây là mẹ tôi, đây là anh  em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người âý là mẹ, là anh chị em tôi." (x. Mt 12:48-49).

Chúa Kitô đã thực hành điều Người nói trên khi quên mình là Thiên Chúa để xuống thế làm Con Người  cho được  vâng phục ý của Chúa Cha muốn cưú nhân loại khỏi tội và khỏi chết đời đời. 

Thứ đến,"mặc lấy Chúa Kitô" có nghĩa là đoạn tuyệt với  tội lỗi vì tội lỗi con người đã đóng đanh Đức Kitô vào thập giá và Người đã chết vì tội của chúng ta. Chúa đã cứu chúng ta bằng con đường khổ giá nên  mang "căn cước Kitô" cũng đòi hỏi chúng ta phải biết bỏ mình  để vác thập giá theo Chúa luôn vì " Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy , thì sẽ tìm thấy được " ( Mt 10: 38).

Ngoài ra, mang căn cước Kitô cũng đòi hỏi chúng ta phải hết lòng yêu mến Người và thực thi những gì Người đã giảng dạy vì "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở trong người ấy." (Ga 14:23). Như vậy, mang danh Đức Kitô  đồng nghĩa với yêu mến Chúa và thực thi giáo lý của Người.

Sau hết, mang căn cuớc Kitô cũng đòi hỏi mọi người tín hữu phải có can đảm tuyên xưng danh Chúa và  làm chứng cho Người  trước thế gian, truớc mọi thế lực thù nghịch với sự  khôn ngoan của Cây Thập Giá như Chúa Giêsu đòi hỏi:  " phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa." ( x Lc 12:8-9)

Tóm lại, "căn tính Kitô" của người tín hữu là ân sủng, là vinh dự,  là lời mời gọi và cũng là thách đố cho chúng ta cố gắng sống và thực thi giáo huấn của Chúa Kitô để được ơn cứu độ, và "được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian", nghĩa là được chia sẻ đời sống và hạnh phúc với Thiên Chúa như Thánh Phêrô đã  viết.( x. 2Pr  1:4).

Nhưng ngay bây giờ trong cuộc sống này,  nếu chúng ta "mặc lấy Chúa Kitô" từ trong suy tư  sâu kín ra đến hành động ăn khớp bên ngoài trong mọi nơi mọi lúc thì  chúng ta cũng có thể nói được như Thánh Phalô rằng: "tôi sống nhưng không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi."(x Gl 2:20).

Điều này không đễ vì thực trạng yếu đuối của con người  sống trong trần thế này trước  bao thử thách  đức tin và lòng mến để thực sự đáng được hưởng ơn cứu độ sau cùng. Thực tế cho thấy là có biết bao người đã chịu phép rửa, đã mang căn cước Kitô nhưng nay đang chối bỏ  căn tính này bằng chính đời sống của mình,  bằng thỏa hiệp với thế giới gian tà để tôn thờ văn hoá sự chết,  đối kháng hoàn toàn với Phúc Âm sự sống mà Chúa Kitô đã rao giảng và trả giá bằng cái chết của mình trên thập giá năm xưa. Nếu họ tiếp tục khước từ Thiên Chúa như vậy thì liệu "căn cuớc Kitô " mà họ lấy được khi lãnh phép rửa có ích gì cho phần rỗi của họ chung cuộc hay không ?

Ngược lại, có biết bao nhiêu người khác đã sinh ra và chết đi  không được chịu phép rửa, không có căn cước Kitô nhưng có thể đã được cưú rỗi nhờ Chúa Kitô nếu họ đã sống ngay lành và trong thâm tâm,  họ đã khao khát tìm chân lý nhưng không có cơ hội được biết Chúa vì không ai rao giảng cho họ biết. Nghĩa là không phải  lỗi của họ. (x SGLGHCG số 847)

Như vậy, có căn cuớc Kitô nhờ Phép rửa không hẳn bảo đảm được  phần rỗi, và không có căn cước này không vì lỗi của ai thì người đó vẫn  có thể được cứu rỗi nhờ Chúa Kitô như Giáo Hội dạy.

Uớc mong bài viết này giúp ích cho quí tín hữu khắp nơi trong việc học hỏi giáo lý, tín lý và thần học của Giáo Hội để củng cố đời sống đức tin trong hoàn cảnh thế giới ngày nay.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Trứng chọi đá

Tôi may mắn sinh ra và lớn lên trong một gia đình hiếu học ở một vùng quê nghèo. Năm tôi lên 8 tuổi, mẹ tôi qua đời vì lao lực. Đó cũng là năm tôi nhận ra mình không thể cao hơn được nữa, tôi bị tật... lùn.

Mỗi ngày ba đều phải cõng tôi đến trường trước sự cười cợt của đám bạn và nhìn ngó của mọi người. Dù bị xem như "người ngoài hành tinh", tôi vẫn quyết tâm đi học đều đặn cho ba vui lòng. Tôi bỏ ngoài tai những lời chọc ghẹo của những người ác ý, ánh mắt hiếu kỳ của bạn bè cùng trang lứa. Cuối cùng, tôi cũng hoàn thành chương trình phổ thông trong sự cố gắng không ngừng nghỉ.

Hồi đó, ngay đối với những học sinh lành lặn, hai chữ đại học là cả một niềm mơ ước. Đối với tôi, một đứa trẻ tật nguyền thì lại càng xa vời.

Hôm đón xe lên TPHCM, cha con tôi tình cờ gặp một người hàng xóm. Vừa trông thấy ba tôi, ông ta hỏi: "Ông đưa nó đi đâu vậy?". Ba tôi trả lời: "Đi thi đại học". Rảo nhìn qua thân hình "ống tre" của tôi, ông nguýt dài kèm theo một câu cụt ngủn: "Hừm, trứng mà đòi chọi với đá"!

Ngồi lên xe và tiếp tục cuộc hành trình, thay vào sự háo hức lần đầu tiên được vào thành phố và chìm đắm trong những giấc mơ tuyệt đẹp về tương lai, đầu tôi bắt đầu ngổn ngang suy nghĩ về câu nói của ông hàng xóm.

Nhưng cũng từ đấy, lời miệt khinh của ông hàng xóm như một thách đố ám ảnh tôi từng giờ. Suy nghĩ mãi, tôi đã đi đến một quyết định "trọng đại": Phải thi đậu bằng mọi giá!



Thế là, dù thành phố đẹp như thế nào, xe cộ, nhà cửa đông đúc ra sao, bấy giờ đối với tôi không còn quan trọng nữa. Tôi lao vào ôn luyện cật lực trong sự lo lắng của ba. Tôi muốn cho ông hàng xóm biết rằng tôi cũng có quyền được thi đậu.

Tôi tranh thủ từng giờ và tận dụng mọi nơi để ôn bài, cẩn thận đến từng câu chữ, kể cả việc phải nghe lời khuyên đầy vẻ mê tín của bà chủ nhà là không ăn trứng, chỉ ăn đậu...

Kết quả, tôi trúng tuyển cả 3 trường mà tôi nộp đơn và là người duy nhất của làng năm đó đậu đại học.

Giờ đây, tôi đã có được một công việc ổn định ở TPHCM, tuy chưa thể gọi là thành công gì to tát nhưng đó là kết quả một quá trình nỗ lực không chịu buông xuôi.

Tôi không buồn giận ông hàng xóm mà thầm cảm ơn cuộc đời đã cho tôi gặp ông trong chuyến xe hôm đó. Nhờ lời chế giễu của ông mà tôi kịp đứng lên...

Phạm Thị Khánh Xuân (nld.com.vn)

2125    24-04-2012 15:07:59