Sidebar

Thứ Tư
01.05.2024

Nguyệt san tháng 3/2016: Sống năm thánh lòng thương xót

1. LỜI CHỦ CHĂN

2. DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

3. LỜI NGUYỆN CHUNG

4. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

5. TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

6. TRANG LINH MỤC

7. TRANG TU SĨ

8. TRANG SỐNG ƠN GỌI

9. TRANG THIẾU NHI

10. TRANG GIỚI TRẺ

11. TRANG GIA ĐÌNH

12. TRANG GIÁO LÝ VIÊN

13. TRANG QUỚI CHỨC

14. SỐNG ĐẸP

15. HỎI ĐÁP MỤC VỤ

16. SỐNG LỜI CHÚA

17. THẦN HỌC KINH THÁNH

18. NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

19. MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 

1. LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.02.2016

Kính gửi: Quý Cha

              Quý Tu sĩ nam nữ

              Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

Anh chị em thân mến,

Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về thuật ngữ Lòng Thương Xót trong Tông Sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót. Tháng nầy, tôi đề cập vắn tắt đến Lòng thương xót trong Kinh thánh.

Thiên Chúa thể hiện Lòng thương xót của Người đối với con người được nhắc đến trong Kinh thánh (số 6-9).

Trong Cựu ước, Thiên Chúa sử dụng lòng nhân hậu thay cho sự trừng phạt và hủy diệt. Thiên Chúa luôn nhẫn nại: “Chúa thứ tha mọi lầm lỗi của ngươi, Ngài chữa lành tất cả bệnh hoạn của ngươi...” (Tv 103, 3-4; 146, 7-9; 147, 3.6) và lòng thương xót đó không bị giới hạn trong một không gian và thời gian nhất định, nhưng “Lòng thương xót của Chúa bền vững muôn đời” (Tv 136).

Trong Tân ước, mầu nhiệm Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4, 8.16) trở nên hữu hình và được tỏ bày trong cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với con người. Tình yêu đó được ban tặng cách vô điều kiện: các dấu lạ Người thực hiện cho các tội nhân, cho những người nghèo khổ, những người bị loại bỏ, cho các bệnh nhân, cho những người đau khổ…Không có suy nghĩ, lời nói và hành động nào của Chúa Giêsu là thiếu vắng lòng thương xót: Chúa Giêsu chạnh lòng thương khi thấy đám đông đi theo mình (x. Mt 9, 36), Người chữa lành các bệnh nhân được mang đến cho Người (x. Mt 14, 14). Người ban cho đám đông được ăn no thỏa (x. Mt 15, 37). Người kêu gọi những tội lỗi (x. Mt 9, 9-13). Người khuyên con người nên tha thứ (x. Mt 18, 22).... Có thể nói Người đến thế gian để đáp ứng mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của con người và qua đó Người thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa.

Những thí dụ được trích ra từ Kinh thánh trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa không còn là một hình ảnh của một Thiên Chúa siêu hình, một Thiên Chúa danh từ để khẳng định tình yêu của mình, nhưng là một Thiên Chúa có tình yêu được nhìn thấy và chạm tới được. Giờ đây, từ ngữ Tình yêu không còn là một từ ngữ trừu tượng, nhưng là một điều gì đó cụ thể: ý định, thái độ và cách cư xử trong cuộc sống hàng ngày. Lòng thương xót của Thiên Chúa chính là mối quan tâm yêu thương của Ngài đối với mỗi người chúng ta. Ngài cảm thấy có trách nhiệm. Ngài muốn chúng ta tốt lành và hạnh phúc, tràn đầy niềm vui và an bình.

Ước gì mọi người chúng ta cùng đọc và suy gẫm những ý tưởng Lòng Thương Xót được trình bày trong Kinh thánh.

Trong mùa chay thánh thiện nầy, mỗi người chúng ta được mời gọi ăn năn sám hối. Chúng ta ăn năn sám hối qua cử chỉ chúng ta biết thương xót và tha thứ cho nhau như Chúa đã thương xót và tha thứ cho chúng ta.

 

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

2. DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 03/2016

Phẩm Giá Con Người Do Lòng Thương Xót

“Mọi sự của cha đều là của con” (Lc 15,32)

Bước vào Mùa Chay, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về phẩm giá làm con Chúa bởi ân sủng vô điều kiện của Tình Thương – Lòng Thương Xót của Chúa.

1. Tội lỗi làm mất phẩm giá làm con Thiên Chúa

“Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói” (Lc 15,17)

Con người là thọ tạo được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1, 27) Tình Yêu, là Cha, Con, và Thánh Thần. Con người (ađam) được tạo dựng từ đất (ađamah) và có sự sống nhờ được thần khí (ruah) Thiên Chúa linh hứng. Nhưng ngay từ đầu dòng lịch sử, con người đầu tiên đã nghe lời dụ dỗ của thần dữ mà phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa, tự do bị lạm dụng vì giả trá đã thay thế sự thật. Từ đó, “là bụi đất người phải trở về với bụi đất”. Mọi người từ đó sinh ra đời để chết (Sein zum Tode – M. Heidegger). Tội lỗi thâm nhập trần gian, con người và toàn thể loài người phải chết.

Tình cảnh đó phản chiếu qua hình ảnh “người con hoang đàng” của dụ ngôn Lc 15, 11-32. Khi xin cha chia phần gia sản để đi xa, người con tội lỗi ấy đã không ý thức được sự mất phẩm giá làm con. Chỉ sau khi tiêu tán hết gia tài rơi vào tình cảnh cùng cực đói khổ, người con tội lỗi đó mới tự nhận ra: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói” (c.17). Dưới bề mặt những lời nói này, người ấy tự đo lường theo mức độ những của cải mình đã mất, ẩn khuất bi kịch phẩm giá đã đánh mất, người ấy le lói ý thức tư cách làm con của mình đã hỏng. “Theo một nghĩa nào đó, người con này là con người mọi thời đại, kể từ người đầu tiên đã làm mất gia tài ân sủng và sự công chính nguyên thủy”[1]. Tội lỗi đã làm con người mất phẩm giá làm con Thiên Chúa.

2. Ơn tha thứ trả lại cho ta phẩm giá làm con Thiên Chúa

“Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay tìm lại được” (Lc 15, 32)

Nhưng Tình yêu, vốn là bản thể của Thiên Chúa, bày tỏ ra bởi Lòng Thương Xót, ngay lập tức tiến hành kế hoạch nhập thể cứu độ. Đến thời viên mãn, Con Thiên Chúa đã sinh hạ làm con một người phụ nữ Do thái, đã đến trần gian mạc khải Dung mạo của Lòng Thương Xót (Misericordiae Vultus) qua chính cuộc sống, qua lời nói và hành động, cái Chết và sự Phục sinh của Người. Người Con Một ấy, vì “loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”, đã không được miễn chước khỏi đau khổ khủng khiếp của Thập Giá. Tất cả chiều sâu của mầu nhiệm Thập giá và chiều kích thần linh của thực tại cứu chuộc được bày tỏ qua lời thánh Phaolô: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2Cr 5,21).

 Thánh Gioan Phaolô dạy, vì tội lỗi có trong thế gian này, mà “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban người Con Một” (Ga 3,16), cho nên “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8.16) chỉ có thể tự mạc khải là lòng thương xót mà thôi. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là vô cùng vô tận. Như vậy, sự mau mắn sẵn sàng của Chúa Cha cũng vô cùng vô tận để đón nhận những người con hoang đàng trở về nhà. Sự mau mắn và quyền năng của ơn tha thứ không ngừng tuôn trào từ của lễ hi sinh vô giá của Chúa Con cũng vô cùng vô tận. Không tội lỗi nào của con người trổi vượt hơn quyền năng này và giới hạn lại quyền năng này. Ơn tha thứ này chỉ bị giới hạn từ phía con người thiếu thiện chí, không sẵn sàng sám hối, tức là ngoan cố thường xuyên chống lại ân sủng và chân lý, đặc biệt khi đứng trước Thập giá và sự Phục sinh của Đức Kitô.[2]

Sự ăn năn sám hối của tội nhân dù “không trọn” (như “người con hoang đàng” trở về nhà cha chỉ vì để giải quyết cái đói cùng cực) nhưng ý thức mình không xứng đáng và mất quyền làm con, ý thức đầy đủ về lẽ công bình mình đáng chịu những hậu quả do mình gây ra, lại được bảo đảm bởi Tình thương biến thành lòng thương xót của Chúa Cha. Người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng mạc khải Thiên Chúa là Cha, trung thành với tư cách làm cha, trung thành với tình thương tràn trề luôn dành cho con. Chúa Cha vui, cả thiên đàng vui, ăn khao thật hào phóng để mừng kẻ hoang đàng trở về “vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay tìm lại được” (Lc 15, 32). Con người tội nhân sám hối được tha thứ được trả lại phẩm giá làm con.

3. Hội Thánh làm chứng cho phẩm giá con người trong thế giới

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi tặng ban Con Một của mình” (Ga 3,16)

Trong khi loan báo Tin mừng cứu chuộc do Lòng Thương Xót của Chúa, Hội Thánh làm chứng cho phẩm giá ấy của con người, vừa thuộc bình diện tạo dựng (theo hình ảnh Thiên Chúa - imago Dei) vừa thuộc bình diện cứu chuộc (“đã mất nay tìm lại được” nhờ ân sủng Đức Giêsu Kitô). Trung thành với sứ mạng ấy, Hội Thánh dạy rằng: “Ơn cứu chuộc do Đức Kitô mang lại và được giao cho sứ mạng cứu độ của Giáo Hội chắc hẳn thuộc trật tự siêu nhiên. Xác định chiều hướng này không phải là đặt giới hạn cho ơn cứu độ, nhưng đúng hơn là muốn diễn tả ơn cứu độ một cách toàn diện. Không được hiểu siêu nhiên như một thực thể hay một địa điểm khởi đi từ nơi mà tự nhiên kết thúc, nhưng phải hiểu siêu nhiên là nâng tự nhiên lên một bình diện cao hơn. Nếu thế thì không có gì thuộc về trật tự tạo thành hay nhân loại mà xa lạ hay bị loại khỏi trật tự siêu nhiên hay trật tự thần học của đức tin và ân sủng, trái lại, tất cả đều tìm thấy trong trật tự này, đều được đảm nhận và nâng cao. “Trong Đức Giêsu Kitô, thế giới hữu hình do Chúa tạo thành cho con người (x. St 1,26-30) – thế giới ‘đã bị rơi vào tình trạng phù phiếm’ kể từ khi có tội xâm nhập vào (Rm 8,20; x. Rm 8,19-22) – đã lấy lại mối liên hệ nguyên thuỷ của mình với nguồn mạch Khôn Ngoan và Yêu Thương là Thiên Chúa. Thật vậy, ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi tặng ban Con Một của mình’ (Ga 3,16). Mối liên hệ này đã bị phá vỡ trong con người Ađam, nay được hàn gắn lại trong con người Đức Kitô (x. Rm 5,12-21)”[3].

 Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

1. Xin anh chị nếu có thể chia sẻ với cộng đoàn nhỏ của mình một kinh nghiệm nhận được ơn tha thứ và cảm nghiệm về phẩm giá tìm lại được của người con được Thiên Chúa yêu thương.

2. Đâu là ý nghĩa và sự tự do do Tin mừng Chúa Giêsu Kitô mang lại cho con người, cho xã hội?

3. Cộng đoàn hay giáo xứ của anh chị có hiển lộ cho môi trường xã hội (qua phụng tự, qua huấn giáo, dấn thân trong nghề nghiệp, bác ái xã hội…) như một cộng đoàn của Lòng Thương Xót của Chúa không?

–––––––––––––

[1] Th. Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, 5.

[2] Ibid., 13.

[3] HTXHCG, 63.

Văn Phòng HĐGMVN - UBLBTM

  

3. LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Khi được tham dự “24 giờ dành cho Chúa”, chúng ta có dịp chiêm ngắm dung mạo Lòng Thương Xót Chúa, được phản chiếu qua đời sống gia đình. Nhờ đó chúng ta dễ dàng thực hiện lòng thương xót đối với mọi người. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       Chúa phán: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh biết bày tỏ lòng yêu thương nhau theo như thánh ý Chúa, để mọi người nhận biết Thiên Chúa là Tình Yêu.

2.       Chúa phán: “Hãy thương xót anh em, như người Samaritanô nhân hậu”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu biết mau mắn giúp đỡ anh chị em mình, biết đón nhận lòng thương xót Chúa, và biết mở rộng ơn cứu rỗi của Chúa.

3.       Chúa phán: “Hãy vào Nước Trời, vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn”. Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình kitô-hữu biết quan tâm giúp đỡ phần xác và cả phần hồn, cho mọi người được sống và sống dồi dào lòng thương xót Chúa.

4.       Đức Maria nói: “Lòng thương xót Chúa trải qua bao thế hệ, dành cho ai biết kính sợ Ngài”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết đón nhận và giới thiệu lòng thương xót Chúa cho anh chị em trong gia tộc mình.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa bày tỏ lòng thương xót cho mọi người qua các gia đình. Xin ban Thánh Thần Chúa xuống để các gia đình chúng con biết làm sáng ngời dung mạo lòng thương xót Chúa, hầu ngày sau đặng lên Thiên Đàng. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hiền

 

4. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

PHẨM GIÁ CON NGƯỜI

TRONG TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

Con người, ngay từ cuộc tạo dựng, đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị trổi vượt trên các thụ tạo. Con người đã được Thiên Chúa thông ban cho quyền cai quản vạn vật. Thế nhưng, cái phẩm giá cao trọng đó nhiều lúc lại không được con người tôn trọng đúng mức. 

1. Những yếu tố làm nên phẩm giá con người

a.  Con người là hình ảnh Thiên Chúa

Con người luôn cố gắng đi tìm câu định nghĩa về chính mình. Nhưng những câu định nghĩa đó thường trái ngược nhau: một bên đề cao con người đến mức tự tôn quá đáng; và bên kia là chê bai con người đến nỗi rơi vào tuyệt vọng. Nhờ mạc khải, chúng ta có được câu định nghĩa xác đáng về con người, biết được nguồn gốc của con người: Con người được Thiên Chúa dựng nên giống và theo hình ảnh của Thiên Chúa (xc. St 1, 27), và vì thế con người “có khả năng nhận biết và yêu mến Thiên Chúa”. Con người là “thụ tạo duy nhất trên trái đất được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ”. Con người được đặt làm trung tâm của công trình tạo dựng của Thiên Chúa.

b.  Con người có lý trí

“Được dự phần vào ánh sáng của trí tuệ Thiên Chúa, con người có lý để nhận định rằng nhờ trí tuệ họ vượt trên mọi tạo vật”. Nhờ vào kinh nghiệm, lao động và sáng tạo, con người đã khám phá ra và phát minh ra những công trình khoa học kỹ thuật, nghệ thuật… con người không chỉ hiểu biết những hiện tượng vật chất mà còn có thể nhận biết những thực tại siêu hình mặc dù lý trí đó đã bị tội lỗi làm suy nhược. Sự hiểu biết sẽ thôi thúc con người không ngừng tìm kiếm và yêu mến những gì là chân, thiện và mỹ. Nhờ suy tư hiểu biết, nhân vị con người được kiện toàn. Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, con người có thể tiến tới “sự chiêm ngưỡng và nếm hưởng mầu nhiệm thánh ý Thiên Chúa”. Nhờ vào ánh sáng của lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết các bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và những bằng chứng này “có thể giúp con người dễ đón nhận đức tin và cho thấy đức tin không nghịch với lý trí”.

c. Lương tâm Thiên Chúa ghi khắc trong lòng mỗi người

“Con người khám phá ra tự đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. (GS 16).

Con người cần đào luyện lương tâm để cho nó phù hợp với những điều luật luân lý khách quan, hầu mong tránh những sai lầm. Sống theo tiếng nói lương tâm, lương tâm không sai lầm và lương tâm khách quan, sẽ làm cho phẩm giá con người có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người quy luật luân lý vĩnh cửu, luật đưa đến chân lý và sự sống đời đời.

d.  Con người có ý chí tự do

Cái nét nổi bật nơi con người và cũng là cái làm nên sự phong phú nơi con người là ý chí tự do. Cái tự do mà chúng ta muốn nói ở đây là tự do của con cái Chúa, chứ không phải là thứ tự do nô lệ (xc. Gl 5, 1 - 25). Con người “được gọi để thừa hưởng tự do”. Nhưng trong thực tế, con người lại “lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt” (Gl 5, 13).

 

Cái tự do thực sự của con người chỉ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Khi con người muốn đi ra khỏi tầm ảnh hưởng của Người thì chính lúc đó con người sẽ đánh mất tự do, cái tự do là cái quý giá nhất của con người.  Con người sẽ trở nên nô lệ cho tội lỗi. Thiên Chúa vốn là Đấng yêu thương, nên đã ban Đấng Cứu Thế để giải thoát con người khỏi ách nô lệ, tìm kiếm những thứ con người đã đánh mất.

Tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa trong con người. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn để con người tự định liệu, hầu con người tự mình đi tìm Đấng Tạo Dựng và nhờ kết hợp với Ngài con người tiến tới sự hoàn thiện trọn vẹn và hạnh phúc. Vậy phẩm giá của con người đòi họ phải hành động theo sự chọn lựa ý thức tự do, nghĩa là chính con người được thúc đẩy và hướng dẫn tự bên trong, chứ không do bản năng mù quáng hay cưỡng chế hoàn toàn bên ngoài.

2. Tội lỗi – nguyên nhân làm giảm nhân phẩm

Từ buổi đầu, con người được dựng nên trong tình trạng công chính nguyên thủy. Con người đã không vâng theo lời Thiên Chúa dạy bảo nhưng đã nghe lời xúi giục của Thần Dữ để chống lại Thiên Chúa và muốn tìm được cùng đích đời mình ngoài Thiên Chúa. Mặc dù nhờ ánh sáng của lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết mà yêu mến phụng sự Chúa, họ đã không làm như vậy, nhưng đi phụng sự các loài khác cũng là thụ tạo như mình (xc. Rm 1, 21-25). “Điều Thiên Chúa mạc khải cho ta biết cũng phù hợp với kinh nghiệm của ta. Bởi vì nếu nhìn sâu tận đáy lòng mình, con người cũng khám phá ra rằng mình đã hướng về sự dữ và đã ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể xuất phát từ Đấng Tạo Hóa tốt lành của mình” (GS 13,1).

Từ khi tội lỗi xâm nhập vào thế gian, hình ảnh con người bị hoen mờ, phẩm giá con người bị hạ thấp và làm ngăn cản con người đạt đến sự viên mãn của đời mình là được kết hợp với Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu (xc. GS 13, 2).

4. Phẩm giá con người trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể

Hình ảnh con người đã bị tội lỗi làm hoen ố, hay nói cách khác là phẩm giá con người đã mất hết phẩm vị cao trọng khi Tổ Tông con người phạm tội. Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trong thế gian để làm cho hình ảnh con người nên tinh tuyền trở lại (xc. GS 22, 2). Phẩm giá con người hay mầu nhiệm về con người “chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể” (GS 22, 1). Con người chỉ có thể hoàn thành vận mệnh đời mình và đạt đến cùng đích viên mãn nơi Đức Kitô: “Chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người” (GS 22, 2).

Nhờ tác động của ơn Chúa Thánh Thần, con người được đổi mới để được “dự phần vào mầu nhiệm phục sinh, được đồng hóa với cái chết của Chúa Kitô, được mạnh mẽ nhờ đức cậy, họ tiến lên đón nhận ngày sống lại” (GS 22, 4.) để trở nên người đồng thừa tự Nước Trời với Đức Kitô.

Con người có phẩm giá cao trọng vì con người được Thiên Chúa dựng nên theo và giống hình ảnh Thiên Chúa. Thế nhưng, cái hình ảnh đó đã bị tội lỗi làm cho hoen ố. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban Con Một là Ngôi Lời nhập thể làm người để trả lại cho con người cái phẩm vị siêu việt của hình ảnh theo và giống Thiên Chúa.

 

5. TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

C. Đức Vâng Phục

Điều 601 của Bộ giáo luật đưa ra một khái quát của lời khuyên thứ ba là sự vâng phục, hay còn gọi là đức vâng lời bề trên như sau:

Lời khuyên Phúc Âm về đức vâng phục, được đảm nhận trong tinh thần đức tin và đức ái để theo bước Đức Kitô là Đấng đã vâng phục cho đến chết, đòi buộc ý chí một sự phục tùng các Bề Trên hợp pháp, khi các ngài đại diện Thiên Chúa ban lệnh hợp theo hiến pháp riêng (đ.601).

Với nội dung của điều 601 trên cho chúng ta thấy được hai điều:

-        về phương diện thần học: “trong tinh thần đức tin và đức ái để theo bước Đức Kitô là Đấng đã vâng phục cho đến chết”;

-        về phương diện Giáo luật: “sự phục tùng các Bề Trên hợp pháp, khi các ngài đại diện Thiên Chúa ban lệnh hợp theo hiến pháp riêng”.

Dựa vào nội dung nầy, chúng ta lần lượt tìm hiểu từng điều một:

c/. Phương diện thần học

Chúng ta nói đến phương diện thần học về đức vâng lời, nghĩa là chúng ta nói đến sự vâng lời bề trên nhưng được đặt trong mối tương quan với Thiên Chúa. Điều nầy thật bao la, nếu chúng ta xem lại lịch sử của Giáo hội về đức vâng lời được trải qua bao thời kỳ cho tới Công đồng Vatican II. Việc làm nầy xem ra có vẽ hơi dài dòng, nhưng nó đem lại cho chúng ta một lợi ích không nhỏ. Vì vậy, chúng ta cùng nhau nhìn lướt qua một vài nét chính về đức vâng lời trong lịch sử của Giáo hội nơi những cá nhân và cộng đoàn tu trì.

          1/. Đức vâng lời nơi các ẩn sĩ

Với tâm nguyện “Lạy Ngài, Ngài muốn con làm gì?”, người đan sĩ luôn đặt lên hàng đầu là vâng theo ý Chúa. Vì vậy, trong bước đường tu trì, người đan sĩ cần phải có người dìu dắt, đó cũng là tính sư phạm: người học trò còn non nớt cần phải biết nghe lời thầy dạy dỗ. Đồng thời nó cũng mang tính cách tu đức: người học trò không những cần hấp thụ những kiến thức trừu tượng mà còn phải thực hành nữa. Vì thế bề trên có thể đưa ra những bài tập thực hành nhằm giúp các môn sinh từ bỏ ý riêng, tập đức khiêm tốn. Chính trong bối cảnh đó, mà chúng ta đọc thấy những bài học về việc trồng cây ngược, hay tưới cây khô...

          2/. Vâng lời nơi các đan sĩ cộng đoàn

Đến khi xuất hiện đời sống tu cộng đoàn, sự vâng lời không chỉ được nhìn dưới khía cạnh tu đức mà thôi, nhưng còn trong khía cạnh tổ chức xã hội nữa: trong một cộng đoàn, cần phải có người chỉ huy để cho đời sống trong cộng đoàn đó có trật tự, không bị hỗn loạn.

Tuy nhiên, khi phân tích các bản luật cổ của thánh Pacomio, Basilio và Biển đức cả ba vị đều đề cao vai trò của đức vâng lời, nhưng mỗi vị nhấn mạnh tới một khía cạnh khác nhau, nhất là vai trò của bề trên:

-        Thánh Pacomio thì muốn rằng toàn thể các đan sĩ sống trong đan viện phải đồng lòng hợp ý để khám phái ra ý Chúa. Chính Thiên Chúa là đấng cai quản cộng đoàn, chứ không phải là viện phụ.

-        Thánh Basilio quan niệm rằng mục tiêu của đức vâng lời là từ bỏ ý riêng để theo Đức Kitô. Vì vậy, các đan sĩ trước tiên phải vâng lời ý Chúa biểu lộ qua các điều răn trong Kinh Thánh. Kế đó, đan sĩ cũng phải vâng lời suy phục hết mọi người (miễn là điều truyền khiến đó hòa hợp với ý Chúa) kể cả một người anh em nhỏ bé nhất trong cộng đoàn khi họ sửa bảo ta. Thánh Basilio luôn nhấn mạnh đến sự vâng lời như là một bổn phận. Vâng lời để thực hành yêu thương, là giới răn quan trọng của Chúa Giêsu và cũng để bắt chước Ngài vâng lời Thiên Chúa Cha.

-        Thánh Biển Đức quan niệm đức vâng lời như một phương thế thực tập đức khiêm nhường. Trong chương 7 của bản luật, thánh nhân đã trình bày các cấp độ của nhân đức vâng lời, gắn liền với nhân đức khiêm nhường và các nhân đức khác.

o        Cấp một: vâng lời Thiên Chúa trong hết mọi sự, may mắn hay rủi ro;

o        Cấp hai: từ bỏ ý riêng của mình để làm theo ý Chúa và bắt chước Đức Kitô;

o        Cấp ba: vâng lời bề trên vì lòng mến Chúa;

o        Cấp bốn: nhẫn nại chịu đựng cả những điều trái ý bất công;

o        Cấp năm: vâng lời cả anh em mình nữa.

Thánh nhân cũng lưu ý rằng: đức vâng lời cần phải tỏ ra cách đặc biệt đối với Viện phụ. Vì Viện phụ là người thầy hướng dẫn môn sinh trên đường trọn lành; tu sĩ hãy vâng lời Viện phụ vì người thay mặt Đức Kitô. Sự vâng lời không những chỉ giới hạn vào việc tuân hành điều mà bề trên truyền khiến, nhưng còn phải hòa hợp ý chí của mình với ý của bề trên nữa. Sự vâng lời là một trong ba đối tượng mà đan sinh phải cam kết: vĩnh cư, cải hóa và vâng lời (hoán cải: là tuân giữ luật dòng; vâng lời: nhằm cá nhân của viện phụ, người thầy dẫn đường nhân đức, và hiện thân của Đức Kitô.

Từ đó, có thể cho chúng ta thấy rằng thánh Basilio và Biển Đức đã tạo ra hai khuynh hướng trong quan niệm về đức vâng lời bề trên: đối với thánh Basilico thì sự vâng lời bề trên nhằm tạo ra sự thông hiệp trong cộng đoàn; còn đới với thánh Biển Đức thì sự vâng lời bề trên nhằm thực hành sự hy sinh từ bỏ mình, bề trên là người thay mặt Chúa.

3/. Đức vâng lời theo thánh Đa minh và thánh Inhaxiô

 

6. TRANG LINH MỤC

THỪA TÁC VIÊN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Trong cuộc họp Ban Mục Vụ Giáo Phận Vĩnh Long ngày 22 tháng 01 năm 2016, Đức Cha Phêrô định hướng mục vụ trong những tháng đầu năm, Đức Cha lưu ý các Ban Mục Vụ, qua Bí Tích Giải Tội, cần chú ý đặc biệt đến đến những rối rắm, nguội lạnh, bê trễ nhằm giúp họ lãnh nhận tình thương và ơn tha thứ của Chúa.

Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhắc nhở các Linh mục: “Mỗi cha giải tội phải đón nhận các tín hữu tương tự như người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng. Các cha giải tội được mời gọi ôm người con trai ăn năn đang trở về nhà và diễn tả niềm vui được có lại người con ấy. Cầu xin cho những cha giải tội đừng đặt ra những câu hỏi vô ích, cầu xin cho các cha giải tội học được cách chấp nhận những lời kêu gọi giúp đỡ và lòng thương xót tuôn chảy từ trái tim của mỗi hối nhân” (MV số 17).

Thứ tư Lễ Tro ngày 10 tháng 2 năm 2016, tại Đền thờ Thánh Phêrô, có 700 Linh Mục thừa sai lòng thương xót, đến từ các nước trên thế giới, kể cả Việt Nam. Đức Thánh Cha mời gọi các Linh Mục thừa sai lòng thương xót hãy giúp các tín hữu cởi mở tâm hồn, vượt thắng sự xấu hổ và đừng trốn chạy ánh sáng.

Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hiệp ý cầu nguyện trong nghi thức sai các thừa sai lòng thương xót: ”Lạy Thiên Chúa, chúng con chúc tụng và ngợi khen Chúa vì trong ý định huyền nhiệm lòng thương xót của Chúa, Chúa đã sai Chúa Con đến trần thế để giải thoát con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi, nhờ máu đổ ra của Con Chúa và làm cho con người được tràn đầy hồng ân của Chúa Thánh Linh. Lạy Chúa, xin nhìn đến các tôi tớ Chúa đây mà chúng con sai đi như những sứ giả của lòng thương xót, của ơn cứu độ và an bình. Xin cánh tay Chúa hướng dẫn những bước chân của họ và nâng đỡ họ bằng quyền năng ơn thánh của Chúa để họ không suy yếu dưới gánh nặng lao lực tông đồ. (Đài Vatican)

Như vậy, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, các Linh Mục cũng đang thực thi lòng thương xót qua việc tha thứ nơi Bí Tích Giải Tội, một tác vụ thật khó khăn nhưng hết sức cao đẹp.

-        Một tác vụ khó khăn: Ngồi tòa giải tội giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, nghe đi nghe lại đủ thứ tội lỗi trần gian, trí óc luôn làm việc căng thẳng. Một tư thế ngồi, tay cầm tràng hạt, tay chống trán, đầu tựa vào tòa nghe chăm chú. Có khi cơ thể mệt mỏi ê ẩm mà không được nghĩ ngơi.

-        Một tác vụ cao đẹp: Qua trung gian Linh mục, hối nhân gặp được trái tim đầy thương xót của Thiên Chúa. Và đó là hạnh phúc. Người ta bảo trên đời có ba bóng dáng hạnh đó là: mẹ đem con đi rửa tội về, người lành tạ thế và hối nhân từ tòa giải tội bước ra.

Nếu hạnh phúc của người truyền giáo là có một người được rửa tội thì hạnh phúc của Linh Mục giải tội là có một tội nhân được giao hòa với Chúa, được tìm lại ơn thứ tha và nguồn bình an trong tâm tâm hồn. Hối nhân càng nhiều tội lỗi, càng lâu năm xa cách nguội lạnh mà được ơn trở lại thì Linh Mục càng nhiều hạnh phúc. Có những hối nhân đã khóc nức nở khi sám hối về tội lỗi của mình và nhận ra lòng thương xót của Chúa.

Để có thể thi hành tác vụ của lòng thương một cách hữu hiệu. Linh Mục cần phải quảng đại ban ơn tha thứ như chính Chúa đã nêu gương. Bởi chính các Linh mục cũng là hối nhân, cho dù nhiệm vụ của Linh Mục là trở thành những chứng nhân cho Thiên Chúa, là những phát ngôn viên của lòng nhân từ có sức cứu rỗi, là thừa tác viên của Bí Tích Giải Tội, nhưng Linh Mục cũng còn là hối nhân như bất cứ ai, và cũng cần đón nhận những ơn phúc phát sinh từ Bí Tích Giải Tội.

Tông huấn sám hối và hòa giải số 31 nhắc nhở rằng: “Đời sống linh mục có thể bị suy thoái nếu chính họ thờ ơ, hoặc vì một lý do nào khác, không đến với bí tích hòa giải một cách đều đặn với đức tin và lòng sốt sắng đích thực. Nếu một linh mục không còn đi xưng tội nữa hoặc xưng tội không nên thì sứ vụ linh mục của Ngài sẽ sớm bị ảnh hưởng, và chính cộng đoàn do linh mục dẫn dắt sẽ nhận ra điều đó”.

Chính vì thế, trước khi là thừa tác viên lòng thương xót, mỗi linh mục cũng là người biết đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Muốn chu toàn trách vụ, linh mục cần ký thác trái tim nhỏ bé của mình vào trái tim xót thương của Thiên Chúa. Linh mục phải luôn ghi nhớ nằm lòng những lời Kinh Thánh: “Tội lỗi của chúng ta, chính Chúa Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1Pr.2,24); “Tôi bảo thật các ông, tội lỗi của cô ấy, tuy rất nhiều, nhưng đều đã được tha, vì cô ấy đã yêu nhiều; còn ai được tha ít, là vì yêu ít” (Lc.7,47).

Mỗi lần ban ơn tha thứ tội lỗi cho hối nhân do lòng thương xót là linh mục thấy mình được tiến thêm một bước trên con đường nên thánh. Xin Chúa giúp sức để chúng con chu toàn tác vụ Chúa trao trong Năm Thánh này.

Lm. Giacôbê Hoà Bình

 

 

7. TRANG TU SĨ

CÂU CHUYỆN ĐẦU NĂM

Nắng nóng…bụi đường…xe cộ…Gió cứ vô tư thổi thêm những làn hơi rát bỏng.

Buổi chợ trưa vẫn đang sầm uất, tiếng rao, tiếng lanh canh, leng keng, tiếng đốp đốp của cây dao bén nện xuống thớt…người ta í ới gọi nhau, nài kéo, đon đả, xởi lởi, kỳ kèo, hờn dỗi…lách qua được những hàng chật người đi, tôi mừng rỡ như thể tìm ra thiên đàng. Không còn thời giờ để chiêm niệm ở chốn chợ búa này, tôi gọi chị hàng bún:

-        Chị ơi! Cho em hai phần mang về nhen!

Mùi thơm bắt đầu xông vào mũi, chui tọt vào cái bao tử trống của tôi làm nó kêu “ọc ọc”. Tôi sung sướng nghĩ đến cảm giác về đến nhà, nhởn nha phần bún riêu cua và tận hưởng không khí vui sum họp với gia đình trong những ngày đầu năm mới. …Ôi ngày tết thật tuyệt vời! xuân ơi, xuân dễ thương ghê! Đang hứng khởi gõ thầm theo nhịp một bài thánh ca xuân, tôi chợt có cảm giác rờn rợn, nhớp nhớp, lạnh lạnh…một cánh tay đen đúa, gầy gò đang nắm lấy ống chân tôi, vì tôi phải túm ống quần lên để khỏi bị dính bùn…không định thần kịp và vì giật mình, tôi phản xạ theo tính tự nhiên cố hết sức bình sinh giũ cho thoát khỏi vật gì ghê gớm đó, tôi lảo đảo bật người về phía trước, đầu tôi đụng vào cây cột ngăn cách các gian hàng. Đau điếng, tôi vội ôm trán xoa xoa, chưa kịp nói lời nào thì tôi thấy nhiều người xúm lại quanh tôi, hỏi tới tấp:

-        Trời ơi! Giêsu, lạy Chúa tôi! Dì có sao không Dì?

-        Đưa Dì đi bệnh viện đi, ngã trúng cây cột rồi...

-        Dì ơi Dì, Dì có bị chảy máu không Dì?...

Tôi chưa kịp nói gì, chỉ xua xua tay, lắc lắc đầu…thì ngay lập tức mọi người lại đổ dồn mọi tội lỗi lên thân thể đen đúa, gầy gộc bên kia…

-        Nè! Chỗ này là chỗ cho mày lết tới hả mậy?

-        Trời ơi là trời! Bị lùa đi hoài mà cũng còn dai như đỉa, giờ lại làm té Dì phước rồi kìa.

-        Ừa, Dì phước mà có chuyện gì là tụi tao đập mày bỏ góc chợ luôn!

Tôi loạng choạng đứng lên. Trước mắt tôi, một người đàn ông đen thật đen, hai trũng mắt thâm quầng và sâu hõm vì đói, trên cái tấm ván sứt mẻ, dơ bẩn để lộ hai ống quần rách bươm..ông không có đôi chân… miệng bị méo xệch một bên làm khuôn mặt trở nên vô cùng đáng sợ… con người khốn khổ ấy đang chới với vì cú hất vô tình của tôi, và nhiều lời xỉ vả, xách mé của đám đông đang lăng mạ ông. Trái tim tôi nghe dâng lên một sự ngẹn ngào. Tôi vẫn đứng đó, bất động, người ta đang bênh vực tôi, và lăng nhục con người ấy vì tội đã lỡ làm cho tôi giật mình té ngã, nhưng tôi lại cảm thấy bơ vơ như ông, cảm thấy sự trần trụi, khốn khổ đến cùng cực của ông…Người ta đang bảo vệ phẩm giá cho tôi, một Dì phước được thánh hiến cho Chúa, nhưng ai bảo vệ phẩm giá cho con người này? Con người cũng được  tạo nên bởi Tình Yêu của Chúa? Tôi cảm thấy mình có tội, thấy mình nhục với cái nhục của ông, và tôi rơi nước mắt…

-        Thôi ạ! Con không sao, mọi người đừng trách bác này nữa ạ!

-        Nhưng Dì…

-        Dạ, Thiệt mà! Bác này cũng đâu có cố tình, chỉ tại con giật mình nên mới té.

Đám người từ từ giãn ra, thưa dần và mọi sự lại trở lại như lúc đầu. Tôi bước lại gần ông, đôi mắt khờ dại, ngu ngơ, cái miệng méo mó cười, nụ cười xấu xí nhất mà tôi từng thấy, nhưng lại là nụ cười chân thật nhất, bao dung nhất mà Thiên Chúa muốn dành cho tôi. Tôi thầm thưa cùng Chúa: “Chúa ơi, nếu có mẹ Têrêsa Calcutta ở đây, người này sẽ được sống đàng hoàng hơn phải không?”

Chợt có một cánh tay vỗ vào vai tôi:

-        Thôi Bà Sơ đi về , tụi tui sẽ đưa ông già tật này lên trung tâm, tại ổng làm khu chợ này phiền nhiều lắm rồi, Bà Sơ đi về đi!

Tôi lặng lẽ đứng lên, nhìn theo người đàn ông kém may mắn ấy đang “được” mấy ông quản lý chợ khiêng đi ...

Lạy Chúa, thế giới xung quanh con còn quá nhiều khổ lụy, nhân phẩm con người càng lúc càng bị hạ thấp bởi muôn vàn lý do, người giàu sang đánh mất nhân phẩm, người khốn khó bị ruồng bỏ, dập vùi…xin Lòng Thương Xót Chúa mặc lại cho chúng con nhân phẩm đích thực của người con cái Chúa để chúng con cũng biết nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá anh chị em xung quanh. Amen.        

MTG Cái Nhum

 

ĐÁNG THƯƠNG HAY ĐÁNG TRÁCH

Đang vui đùa với nhóm trẻ, thì em Thuận đến gặp tôi:

Thưa Dì Sáu! Con đem chị Hòa về nhà rồi. Chị con muốn gặp Cha xin chịu các Bí tích sau hết. Bây giờ con lên gặp Cha đây.

Thế thì tốt quá. Chiều nay Dì sẽ đến thăm chị con.

Vừa trả trẻ xong, tôi nói với dì Út:

-        Bây giờ chị em mình đi thăm chị Hòa một chút nha.

-        Ủa! Chị ấy mới đi Bệnh viện Chợ Rẩy hôm kia mà.

-        Nghe nói bệnh của chị nặng quá, bác sĩ cho về. Em chị xin

-        Cha xức dầu cho chị hồi trưa nầy.

-        Tội nghiệp chị ấy quá!

-        Thôi! Mình chuẩn bị đi.

Hòa là một cô gái nhà nghèo. Mẹ mất sớm, cha bị thương tật nơi chân do hậu quả của chiến tranh nên gia cảnh chị rất khó khăn. Chị cố gắng đi làm thuê làm mướn để nuôi cha và lo cho Thuận, đứa em trai còn khờ dại; nhưng mức thu nhập không đủ lo cho gia đình. Chị âm thầm rời quê nhà làm nghề buôn hương bán phấn gởi tiền về nuôi cha. Sau nhiều năm xa quê, chị trở về nhà với tấm thân tàn phế do bệnh Siđa hoành hành ở giai đoạn cuối mà nỗi đau nhất là bị bà con xóm giềng cười chê xa tránh.

Đi bộ hơn nửa giờ thì đến nhà chị Hòa. Bước vào nhà, chị em tôi không cầm được nước mắt khi nhìn ông Ba chân mang nạng, tay run run ngồi ở đầu giường quạt cho con gái. Do vi trùng Aids gậm nhấm, thân xác chị gầy còm, gương mặt tiều tụy xanh xao, tay chân bị lở lói trông thật đau đớn. Chị trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, nhìn chị trăn trở, chị em tôi đọc kinh chuỗi thương xót cầu nguyện cho chị.

Bệnh trạng của chị Hòa kéo dài hơn hai tuần lễ. Chiều nào chị em tôi cũng đến thăm, đọc kinh cầu nguyện cho chị nhất là an ủi, giúp chị xua tan mặc cảm tội lỗi và cảm nhận được lòng Chúa xót thương. Tôi chậm rãi giải thích cho chị hiểu: Tất cả chúng ta đều là tội nhân, và dù ta tội lỗi đến thế nào, nếu biết thật lòng ăn năn thì chắc chắn Chúa sẽ thứ tha.

Với ánh mắt ưu sầu ngấn lệ, chị nhìn tôi nói từng tiếng một:

-        Con … cám ơn …Dì. Chúa … quên tội… con hết… phải không… Dì?

-        Đúng vậy. Khi chị thật lòng sám hối, Chúa tha thứ hết. Chị tín thác vào Chúa nha.

-        Dạ…

Rồi vào một buổi sáng sớm, hồi chuông báo tử vang lên báo tin chị Hòa đã nghỉ an trong Chúa. Khi biết được tang gia quạnh quẽ, Chị em tôi liền đến đọc kinh, cầu lễ cho chị… thay phiên ở lại nhà tang và tiển biệt chị đến nơi an nghỉ cuối cùng. Đám tang của chị thật vắng vẻ, đìu hiu, ngoài vài thân nhân và một ít bà con giáo dân trong xóm đạo.

Một kiếp người đã ngàn thu an giấc nhưng dư luận đàm tiếu vẫn âm vang vì chị hành nghề mãi dâm mà căn bệnh thời đại đã kết thúc cuộc đời của chị.

Hoàn cảnh của chị Hòa đáng thương hơn đáng trách. Phải chăng lòng người quá hẹp hòi, thiếu độ lượng, thiếu cảm thông với người găp phải hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo! Con người là thụ tạo được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, phẩm giá con người siêu việt hơn muôn loài muôn vật và nhất là chỉ có con người là được cứu độ nhờ máu châu báu Chúa Kitô đã đổ ra, con người sẽ trở thành con Thiên Chúa. Thế nên dù con người thế nào thì phẩm giá họ phải luôn được tôn trọng vì phẩm giá con người là do lòng Thương Xót mà có.

MTG Cái Mơn.

 

8. TRANG SỐNG ƠN GỌI

“ĐÒI TRẢ CÔNG”

ÔÂng bà ta thường hay nói câu “bánh ít đi , bánh qui lại” hay câu “có qua có lại mới tọai lòng nhau”. Ở đời cho ai một món gì đó, rồi khi bất đồng ý kiến, rồi bất mãn có khi đòi lại món quà đã cho hay lấy lại không được thì nguyền rủa trong lòng: “Ôi! Thí cô hồn các đẳng” . Ngoài tình thương thật sự, thì hầu hết người ta qua lại với nhau đều có sự tính toán, ích kỷ và đôi khi là lợi dụng lẫn nhau theo kiểu: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. so đo hơn thiệt,đem cái này cho tặng biếu đổi người khác thì muốn ngừơi ta sẽ đem cho tặng biếu đổi cái khác có giá trị hơn ,hay tốt hơn . Đó là chuyện tính toán giữa con người với con người. 

Còn chuyện trong đời tu đôi lúc chúng ta không tính toán cách trực tiếp với Thiên Chúa nhưng qua cách sống và thể hiện vô tình tính toán với Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Matthêu Thánh Phêrô cũng đã từng hỏi Chúa về “hòn chi” sau khi ông đã chấp nhận ném “hòn đất” đi: “Thưa Thầy, Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy; vậy, chúng con sẽ được những gì?”

Sở dĩ Thánh Phêrô hỏi Chúa cho chắc, vì ngài e sợ rằng ngài bỏ hết của cải, bỏ hết sự nghiệp, bỏ hết gia đình, mà không được gì cho phần thưởng, thì uổng công qúa, vô ích qúa, phí thời giờ qúa!

Câu hỏi của Thánh Phêrô năm xưa, có lẽ cũng là câu hỏi của mỗi người chúng ta hôm nay, và cũng là câu hỏi linh mục và tu sĩ nữa, đó là: Chúa ơi, chúng con theo Chúa đã bấy lâu nay, chúng con bỏ mọi sự, chúng con ngậm ngùi bỏ cha mẹ, chúng con bỏ nhà cửa, chúng con bỏ luôn cả sự nghiệp, chúng con bỏ luôn cả bạn bè; hơn nữa, ngày trọng đại chúng con được tuyên lời vĩnh khấn, hay còn gọi là khấn trọn đời, chúng con nằm dài, úp mặt xuống đất, như nói với Giáo Hội rằng chúng con muốn chết đi con người cũ của chúng con và chúng con dõng dạc khấn rằng chúng con sẽ quyết tâm sống ba lời khuyên Phúc Âm là: khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời Chúa qua vị bề trên; tóm lại, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy Chí Thánh; vậy, chúng con sẽ được gì vậy Chúa?

Chính vì muốn được “trả công” cho mấy mươi năm làm việc mục vụ “cực nhọc” Đức Giám Mục hay bề trên muốn cho về hưu nghỉ ngơi thì lại có suy nghĩ đòi “trả công” cho là bị “vắt chanh bỏ vỏ”. Nếu ý thức đi theo Đức Kitô là hiến thân trọn vẹn thì còn đâu là “chanh” là “vỏ” vì: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Chúa Giêsu đã không giấu giếm điều gì; Ngài trả lời rất thẳng thắn với Phêrô, và qua Thánh Phêrô, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta rằng “chẳng có ai bỏ nhà cửa, anh em, gia đình, bà con, ruộng vườn vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu.”

Chúng ta hiểu điều Chúa Giêsu nói như thế nào? Có phải nhà cửa, của cải, hoặc ruộng nương, chức vụ, là cứu cánh cho chúng ta hay không? Chắc chắn những điều này không phải là cứu cánh; trái lại, chúng chỉ là phương tiện để ta làm việc mà thôi.

Ngày nay, dường như có người nghĩ rằng tôi bỏ mọi sự để theo Chúa, tôi phải được sở hữu những điều này, điều kia, tôi đã bỏ công sức ra trong suốt nhiều năm qua để thực hiện dự án này, thực hiện công trình nọ; do đó, tôi phải được điều này điều kia; và thế là họ sẵn sàng dùng thủ đoạn này, mưu kế nọ, để giữ cho được chức vụ cao cấp trong hội đoàn, trong giáo xứ, thậm chí ngay cả trong hội dòng nữa, bởi vì họ lưu luyến chức vụ ấy.

Có người chỉ dừng lại nơi những gì là của cải vật chất. Trong ngày họ tuyên lời khấn trọn, họ hứa sống khó nghèo, họ buông xuôi hai tay như dấu chỉ cho đi tất cả; nhưng thời gian dần trôi, họ bắt đầu nắm tay lại, họ cố làm cách này, cách nọ để thu gom, để góp nhặt, để giữ lại cho riêng mình những gì đáng lẽ thuộc về của chung, của cộng đoàn, của hội dòng! Giống như lời Đức cố HY Fx.saviê Nguyễn Văn Thuận đã cảnh tỉnh “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước.” (Đường Hy Vọng, số 3)

Khi bước vào đời sống tu trì là chúng ta chấp nhận hiến thân làm việc như một người con làm việc cho Cha mình là Đức Kitô và người Mẹ là Giáo Hội. Vì vậy, chúng ta làm với tư cách là một người con, chứ đừng làm theo kiểu kẻ làm công đòi trả lương. Hơn nữa, những gì chúng ta có được là do Cha Mẹ ban cho còn mình chỉ là “đầy tớ vô dụng” chẳng có gì để đòi hỏi hay muốn được trả công.

 

 

9. TRANG THIẾU NHI

DẠY CHỮ NHÂN CHO THIẾU NHI

Chuẩn bị lãnh chức phó tế, tôi về họ đạo nhà xin lời rao chức thánh. Trước lễ nhì Chúa Nhật, tôi ra sân nhà thờ nói chuyện với mấy em thiếu nhi. Một em chạy lại nắm tay tôi mừng rỡ: “Thầy, về hồi nào vậy thầy?” Tôi trả lời: “Thầy mới về hôm qua, có chút chuyện, rồi lát nữa thầy đi”. Tôi quên em tên là gì, chỉ nhớ trong đầu là em quậy lắm. Từ Sài Gòn, bà nội em dẫn em về nhờ dì sáu dạy giáo lý dùm. Nhiều người không dạy được em nhưng dì sáu dạy được vì dì hiểu yếu điểm của em: tính em ngang bướng nhưng chịu ngọt, thích dùng vũ lực nhưng lại yêu chuộng người khác dịu dàng với mình. Em đang hồ hỡi với tôi thì một em nhỏ khác lại méc: “Thằng này nó mới tự vẫn bằng dây chì không chết đó thầy”. Đang vui, em xuống gà, xụ mặt, phùng mang. Tôi nhìn hiểu được tâm trạng nhưng không thể ngăn cản phản ứng của em trước sự công kích của thằng bạn. Nhìn em rượt đánh thằng bạn, tôi quên cả việc ngăn em lại vì đầu óc tôi đang suy nghĩ một vấn đề: “Lời nói của một thiếu nhi vô tình nhưng trở thành nhát dao đâm vào vết thương của bạn thiếu nhi khác. Sự vô tình của thiếu nhi phải chăng nên trách người lớn, vì trong quá trình giáo dục ngày nay, các nhà giáo nổ lực đào sâu kiến thức khoa học mà quên hay không quan tâm nhiều để dạy bài học chữ NHÂN cho học trò mình.”

Dĩ nhiên trước tiên, bài học chữ nhân được dạy cho thiếu nhi từ các môn học trên ghế nhà trường: đạo đức, giáo dục công dân, văn chương, … Đó là hình thức dạy chữ nhân bằng chữ nghĩa, bằng lý thuyết. Bên cạnh đó, bài học này còn được dạy cách sống động và phong phú hơn từ những nguồn kiến thức khác nữa:

Bài Học Chữ Nhân Được Dạy Từ Nguồn Kiến Thức Là Những Yếu Tố Thuộc Văn Minh, Văn Hoá Thời Đại:

Tôi nhớ ngày xưa, lúc tôi học lớp 5, cứ đến chiều thứ bảy, mấy chị em tôi qua nhà bà út hàng xóm coi cải lương. Thời của tôi, coi cải lương là việc giải trí tạo niềm vui sau một tuần học căng thẳng.  Trong vỡ cải lương, những bài học luân lý hay được đan xen khéo léo vào niềm vui cuối tuần. Tôi hiểu được tình anh em qua vỡ Ăn Khế Trả Vàng, tình bạn bè qua Lưu Bình Dương Lễ, tình chồng vợ, tình người qua SựÏ Tích Trầu Cau, …và nhiều vỡ tuồng rất hay dạy chữ Nhân cho mọi giới tuổi,ø đặc biệt là bồi dưỡng tuổi thiếu nhi của tôi. Bên cạnh cải lương, tôi thích đọc những quyển truyện tranh, truyện cổ tích bà tôi mang từ Sài Gòn về. Có những ngày tôi quên ăn trưa để đọc những quyển truyện ấy. Cho tới bây giờ, khi thao thức về việc dạy chữ nhân cho thiếu nhi, tôi mới hiểu được những quyển truyện ấy là kho kiến thức vô tận dạy chữ nhân. Ngoài việc đọc chuyện ra, tôi có thêm niềm vui bên những đứa bạn cùng xóm: rủ nhau đi bắn chim, chơi năm mười, làm ống thục, thả diều, chơi kinh một kinh hai …những trò chơi này tuy quê mùa nhưng có giá trị gắn kết tình bạn bè, tình anh em lối xóm. Ngày nay, niềm vui của thiếu nhi hiện đại không còn đơn sơ, mộc mạc như ngày xưa. Cải lương được thay bằng game bạo lực, phim Hàn Quốc, thậm chí cả những phim không lành mạnh trên một số trang Web. Truyện cổ tích, truyện tranh giáo dục được thay bằng truyện Conan, Đôrêmon, hay những chuyện vui kiểu mì ăn liền. Việc chơi chung với bạn bè gần nhà được thay bằng nhắn tin điện thoại, chat, Facebook, ….Niềm vui của thiếu nhi trong thời buổi văn minh thì phong phú hơn thiếu nhi ngày xưa, nhưng tiếc thay, những thứ hấp ấy đa phần không thể bồi dưỡng và dạy sâu thêm bài học chữ nhân cho các bạn thiếu nhi.

Bài Học Chữ Nhân Được Dạy Từ Nguồn Kiến Thức Là Trái Tim Nhà Giáo:

Nhiều bài báo hay thuật lại những câu chuyện tình người rất dỡ trên con đường xã hội hiện đại. Một người bị tai nạn xe nằm đó, biết bao người đi qua nhưng không ai dám giúp đỡ nạn nhân vì sợ liên luỵ. Các bạn thiếu nhi nhìn thấy điều đó trong thực tế, trên các phương tiện thông tin, vô tình một trang vỡ dạy bài học chữ nhân bị xé nát. Không nói xa xôi trên đường đi, chúng ta quan sát xung quanh ngôi nhà của mình. Nhà cửa ngày nay hầu hết được xây tường, nhà tường có hàng rào bao quanh, hàng rào có khoá bóp lại. Hàng rào giữ trộm không rào theo khuôn khổ địa lý mà có khi rào luôn trái tim mình, đóng cửa trái tim trước hoàn cảnh khó khăn của người khác. Chiếc chìa khoá chống trộm làm sai nhiệm vụ: khoá lại lòng nhân ái, khoá tình người. Bà con lối xóm ngại ngần trước nhà cao cửa rộng, trước hàng rào kính cổng cao tường, không dám viếng thăm nhau, không dám sống cái cảnh tối lửa tắt đèn có nhau. Chiếc hàng rào, chìa khoá trở thành rào cản trong việc giáo dục chữ nhân cho thế hệ trẻ. Bước vào trong gia đình, bài học chữ nhân bị dạy ngược: vợ chồng ly dị, con cái bỏ bê cha mẹ, cha mẹ bỏ rơi con cái, anh chị em tranh dành với nhau từng đồng tiền, miếng đất, …Ngay cả trong lòng giáo dục cũng phơi bày mặt trái của chữ nhân. Có những người thầy dạy trẻ không nhắm tới ích lợi của trẻ mà chỉ vì đồng tiền, để tăng thu nhập. Trẻ tinh ý nhìn thấy được cái tâm không tốt của nhà giáo thì làm sao trẻ có thể học thuộc bài học chữ nhân trên ghế nhà trường. Dạy chữ nhân bằng lý thuyết trong sách vỡ không khó, cái khó là người lớn, đặc biệt là các nhà giáo cố gắng dạy chữ nhân từ nguồn kiến thức là trái tim mình, dạy bằng những hành động nhân ái cụ thể qua gương sáng người lớn, nhà giáo sống có tình người.

Bài Học Chữ Nhân Được Dạy Từ Nguồn Kiến Thức Là Lòng Thương Xót Chúa:

Nguồn kiến thức đầu tiên của chữ nhân không phải nơi sách vỡ, nơi văn minh, văn hoá mọi thời, cũng không phải nơi sâu thẳm trái tim nhà giáo mà từ nguồn chính yếu là Lòng Thương Xót Chúa: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Lòng thương xót này như một dòng sông chảy từ nguồn là Thiên Chúa Ba Ngôi, mang là phù sa tình yêu, mang chữ nhân chảy qua cuộc đời mọi người, chảy đến tận nguồn của lòng thương xót là những anh chị em nghèo nàn, đau khổ. Khi cảm nhận tình thương Chúa chảy qua cuộc đời mình, Chúa mời gọi từng người hãy mau mắn tham gia dòng chảy của lòng thương xót mang phù sang tình yêu đến trao cho người khác. Qua Giáo lý, qua Kinh Thánh, qua các biến cố cuộc sống, các giáo lý viên, các bậc cha mẹ có trách nhiệm giúp các em thiếu nhi nhận ra được loại phù sa tình yêu nơi Thiên Chúa Ba Ngôi chảy qua cuộc đời các em. Để rồi từ đó, các em cũng mang bài học chữ nhân, bài học tình yêu nhận được từ Thiên Chúa đem trao gởi cho người khác trong môi trường sống của mình.

Cải cách giáo dục 1914-1918 chuộng kiến thức khoa học tây phương. Điều đó không sai nhưng đáng tiếc ở chỗø chúng ta không coi trọng và giữ lại những nét sáng trong lối giáo dục đạo đức của nhà nho. Trước những tiêu cực trong thời đại văn minh ngày nay, những bài học xưa của ông thầy đồ càng làm ta thấm thía, nhất là bài học giáo dục chữ nhân cho con người, trong đó cần thiết nhất là mầm non thiếu nhi. Năm thánh Lòng Thương xót đang mở ra cho Giáo hội Công giáo là cơ hội quý báu để dạy chữ nhân cho các kitô hữu, dạy đạo làm người mà hay hơn, cao hơn, dạy yêu như Chúa yêu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

 

 

10. TRANG GIỚI TRẺ

ĐỪNG VỘI CHÊ BAI NGƯỜI KHÁC

Khổng Tử từng dạy rằng: đừng than phiền về tuyết trên nóc nhà hàng xóm khi ngưỡng cửa nhà bạn chưa sạch. Nhiều người thường có thói quen chê bai người khác mà không tự nhìn lại bản thân mình. Họ tưởng rằng khi chê bai một ai đó thì họ trở nên giá trị hơn trong mắt những người xung quanh.

Không ai trong chúng ta là hoàn hảo vậy nên ai cũng có những khiếm khuyết của riêng mình. Đừng vội vàng chê bai khi bạn chưa hiểu rõ về người đó. Hãy tập cho mình thói quen nhìn nhận lại bản thân trước khi đưa ra ý kiến chê bai người khác.

NGẪM MÌNH, NGHĨ NGƯỜI

Hãy đặt bạn vào vị trí của người đó, hãy nghĩ xem nếu là họ bạn sẽ làm như thế nào để hiểu được nguyên nhân vì sao họ lại xử sự như thế. Đừng lúc nào cũng cho rằng mình hoàn hảo, không bao giờ hành xử như người đó. Thế nhưng, ở trong chăn mới biết chăn có rận.

Một cô giáo được giao cho phụ trách 30 học sinh mẫu giáo. Ở lứa tuổi đó các bé thường quấy khóc và mất trật tự, vì vậy không thể tránh khỏi những phút giây làm cô giáo bực mình. Hãy đặt mình vào vị trí của người giáo viên để thông cảm và thấu hiểu cho họ. Khi bực mình, bạn quát mắng, đánh đập con cái của bạn vậy thì những lúc như thế cô giáo sẽ làm gì? Để cho chúng quấy khóc bạn sẽ cho rằng cô giáo thiếu trách nhiệm, đánh đập chúng bạn sẽ cho rằng cô giáo không có kiến thức sư phạm, thiếu kỹ năng nghiệp vụ.

THÔNG CẢM, THẤU HIỂU VÀ THỨ THA

Làm người, bất kỳ ai cũng có những giây phút nóng nảy và sai lầm. Nếu quá cố chấp, chỉ nhìn vào khiếm khuyết rất khó để bạn có thể trở thành người bao dung và rộng lượng. Nhỏ nhen và ích kỷ sẽ ngấm sâu vào bạn khiến cho bạn trở nên “xấu xí” trong mắt bạn bè và người thân.

Đừng lúc nào cũng chú tâm đến những lỗi lầm của người khác rồi chỉ trích, chê bai. Thay vì nói những lời khiến người khác bị tổn thương bạn hãy góp ý nhẹ nhàng và giải thích cho họ hiểu những sai lầm của họ. Như thế không những giúp người khác nhận ra được sai lầm của mình mà còn làm cho tâm hồn bạn trở nên bao dung và cao thượng hơn.

Hãy tha thứ nếu ai đó làm tổn thương bạn, khiến cho bạn đau khổ. Hãy cho họ cơ hội được sửa sai. Bạn cũng sẽ thanh thản hơn khi bỏ qua những gánh nặng trong lòng. Không phải ai cũng có thể tha thứ dễ dàng cho người khác, nhưng dằn vặt người khác cũng là dằn vặt chính bản thân mình. Bạn cũng không muốn mình mệt mỏi và chán nản phải không? Vậy thì thù ghét hãy bỏ qua một bên, bạn nhé!

Không phải lúc nào chúng ta cũng kiềm chế được bản thân khi buông ra những lời cay nghiệt. Bạn hoàn toàn có thể nói những lời nhẹ nhàng hơn tốt đẹp hơn khi bạn kiểm soát được hành vi, lời nói của mình. Hãy học cách nhìn mọi việc từ nhiều khía cạnh, có như thế bạn mới nhìn nhận mọi việc khách quan hơn. Đừng bao giờ vội vàng khi đánh giá, nhận xét hay lên án, chỉ trích một ai đó. Bởi lời nói khi được nói ra khó lòng rút lại được.

 

THƯƠNG XÓT ĐỂ ĐƯỢC XÓT THƯƠNG

“Phúc thay ai xót thương người,

vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”  (Mt 5, 7).

Gặp nhau vào những ngày đầu năm mới, người ta thường cầu chúc cho nhau nhiều điều tốt đẹp: anh khang thịnh vượng, vạn sự như ý…Chúc cho người khác cũng là muốn nói lên ước vọng của mình. Ai cũng muốn nhận được từ người khác, từ Thượng Đế những gì may mắn và tốt đẹp nhất.

Mùa Chay là thời gian người tín hữu được kêu mời tích cực thực hiện một khả năng cao quý mà Thiên Chúa ban cho khi tạo dựng. Khả năng ấy chính là nhìn lại chính mình trong các tương quan: với Chúa, với người khác và với bản thân.

Mỗi khi làm điều đó, chắc hẳn người tín hữu nào cũng sẽ thấy bao nhiêu là vấp ngã, thiếu sót thậm chí là xúc phạm Chúa cũng như người khác. Lúc ấy, điều mong mỏi lớn nhất là được tha thứ bỏ qua. Đấy là động lực cần thiết để người tín hữu tiếp tục sống tích cực hơn. Mình muốn nhận là vậy còn cái mình cho thì sao?

Đức Khổng Tử khuyên: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (“điều gì mình không muốn, đừng làm cho người khác”). Còn Chúa Giêsu dạy: “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế!” (Mt 7, 12)

Thực tế, cái mà người ta cho nhau là ích kỷ, là hẹp hòi, là bắt bẻ, là bắt chẹt nhau… Đang khi đó, cái mà người ta muốn nhận lại là rộng rãi, là quảng đại, là tha thứ, là thương xót…Sự mâu thuẫn ấy cứ liên tiếp diễn ra trong cuộc sống.

Năm thánh Lòng Thương Xót nhắc nhớ người tín hữu đã được Thiên Chúa thương xót và tha thứ nhiều lắm. Đồng thời, điều kiện tiên quyết để nhận được sự tha thứ chính là tha thứ cho nhau trước.

 

Đức Thánh Cha Phanxicô lấy dụ ngôn “kẻ mắc nợ không có lòng thương xót” trong Tông chiếu Dung nhan Lòng Thương Xót để minh họa ý tưởng này. Chúa Giê su kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng đối xử với các anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35).

Thương xót để được xót thương có lẽ phải là một trong những châm ngôn sống cho người tín hữu ở mọi thời đại. cụ thể trong Mùa Chay năm thánh Lòng Thương Xót này.

 

11. TRANG GIA ĐÌNH

SỐNG YÊU THƯƠNG CHUNG THỦY

Quý bạn đọc thân mến,

Cách đây không lâu, nhân chuyến du lịch đến thành phố Sydney, tiểu bang New South Wales nước Úc thăm một linh mục bạn thân từ thuở nhỏ đang phục vụ tại Tổng Giáo Phận này và vài người quen hiện cư ngụ bên đó, tình cờ người viết gặp được người đàn ông bản xứ Úc, tên là Teddy. Trong bữa cơm tối thân mật tại gia đình một người Việt, Teddy đã tâm sự về hoàn cảnh gia đình của anh, mà anh vừa phải chu toàn bổn phận người chồng và người cha, vừa phải đảm đang nhiệm vụ của người mẹ thay cho vợ anh chăm lo cho ba người con trai hết sức dũng cảm.

Theo lời kể của Teddy: Anh là người thợ ướp thịt bê và nướng thịt bê cho một nhà hàng. Tiền công cho một con bê thành phẩm hấp dẫn là 500 đô Úc. Hằng ngày, sau công việc phục vụ ở nhà hàng, anh trở về nhà chăm sóc người vợ nằm liệt giường đã 18 năm. Anh còn kiêm luôn công việc nấu nướng cho vợ và các con. Mỗi đêm, lúc 11 giờ khuya anh phải lái xe đi rước người con trai út từ xưởng làm về nhà vì cậu này không biết lái xe… Kết thúc những lời bộc bạch, anh nói với vị linh mục đến từ Việt Nam rằng: xin cha cầu nguyện cho con và gia đình con thật nhiều cha nhé!… con cám ơn Cha.

Hết lời tâm sự chân thành của Teddy, cả phòng tiệc dường như lòng ai cũng lặng xuống vì xúc động, cảm thông, mến thương và khâm phục. Cuối cùng, người viết chỉ biết thốt lên được duy nhất một câu: Tôi hứa cầu nguyện cho anh và gia đình anh.

Quý bạn đọc thân mến,

Thật không dễ để sống lòng chung thủy, mà năm này tháng nọ người sống ơn gọi gia đình phải luôn đối diện với muôn vàn thử thách!?

Thật không dễ để giữ trọn nghĩa yêu thương, khi cuộc sống hôn nhân đòi hỏi quá nhiều hy sinh và quảng đại!?

Là một linh mục, người viết rất cảm kích và ngưỡng mộ những người chồng, người vợ, người cha, người mẹ cả đời sống tuyệt vời tôn chỉ “hy sinh, yêu thương và phục vụ”. Hãy mãi sống cao đẹp và hy sinh anh dũng vì người mình yêu! Điều đó đẹp lòng Thiên Chúa.                                       

 

12. TRANG GIÁO LÝ VIÊN

THƯ NGỎ GỬI CÁC GIÁO LÝ VIÊN

GIÁO PHẬN CẦN THƠ

 Nhận thấy Thư Ngỏ của Cha Ant. Nguyễn Mạnh Đồng, GP. Cần Thơ gửi các Giáo Lý Viên rất nhiều  tâm huyết, xin được giới thiệu đến Các Giáo Lý Viên.

Tôi như có duyên nợ với việc dạy giáo lý từ khi tôi lên học thần học ở Đại chủng viện Xuân Bích. Mỗi tuần vào chiều Chúa Nhật phải đi thực tập dạy giáo lý ở một xứ đạo thuộc Sài gòn. Khi đại chủng viện dịch cuốn Giáo lý Thánh kinh của Đức, tôi có tham gia dịch. Khi làm linh mục linh hướng Tiểu Chủng viện Thánh Quý tôi phải lo dạy giáo lý các lớp từ đệ thất lên đệ tam. Sau năm 1975 về họ Trà cú với 16 thầy, lo dạy giáo lý cho các lớp, tôi phải dọn giáo lý Vào đời và Chuẩn bị vào hôn nhân. Năm 1995 nhận phụ trách ban giáo lý giáo phận, gồm các cha từ mỗi hạt cử ra, để soạn bộ sách giáo lý từ lớp 1 đến lớp 8. Đến đó tôi không còn sức khỏe phải nghỉ năm 2003. Năm 2011 sách Youcat ra đời, có người chỉ dịch câu hỏi câu thưa và đưa lên mạng. Cha phụ trách sinh viên in phần 1 cho sinh viên học. Tôi bức xúc vì bản dịch không chuẩn, lại chỉ dịch các câu hỏi thưa, nên quyết định dịch đầy đủ cuốn Youcat cho sinh viên học. Từ đầu năm 2013 tôi dịch và lo thủ tục đến tháng 10–2013, Youcat Việt nam được phát hành. Trong hai năm cho đến đầu năm 2016, tôi đã nhận được nhiều email, gặp gỡ nhiều giáo lý viên ở nhiều nơi khác, trao đổi về Youcat Việt Nam, tôi nhận thấy tất cả đã có nhiều bức xúc, cũng khiến tôi bức xúc, nên trong thư ngỏ này tôi chia sẻ 3 chuyện thôi:

1.       Cái nhìn về việc dạy giáo lý theo dòng lịch sử giáo hội.

2.       Khám phá cái độc đáo của Youcat Việt Nam.    

3.       Giáo lý viên hay giảng viên giáo lý. 

1 – Một cái nhìn về việc dạy giáo lý theo dòng lịch sử giáo hội.

Khoảng năm 2000 tôi được cha Phaolô Nguyễn Bình Tỉnh, giám đốc Đại chủng viện Xuân Bích Huế, là bạn cùng học thần học ở Xuân Bích, Thị nghè, mời tôi ra chia sẻ kinh nghiệm về việc dạy giáo lý, ở đại chủng viện Huế cũng có cha giáo về sư phạm giáo lý. Tôi mới mua được cuốn Bách khoa từ điển về giáo lý viên, Thabor 1993 (tiếng Pháp). Tôi thấy có phần lịch sử về việc dạy giáo lý. Tôi dựa vào đó soạn một Bản Tổng lược về dạy giáo lý theo dòng lịch sử giáo hội. Tôi chọn ra 10 vấn đề liên quan đến việc dạy giáo lý: Thời kỳ - Nơi chốn – Hoàn cảnh văn hóa xã hội – Người dạy – Dạy để làm gì – Dạy gì – Sách để dạy – Cách dạy – Dạy cho ai – Huấn luyện giáo lý viên. Rồi tôi chia lịch sử giáo hội thành 6 thời kỳ: Thời Chúa Giêsu – Thời các Tông đồ - Thời các Giáo phụ - Thời Trung cổ - Thời Phục hưng đến trước Công đồng Vatican II tới nay. Tôi ghép thành bản Tổng lược gồm 7 cột; cột đầu là 10 vấn đề giáo lý – Sáu cột sau là các thời kỳ lịch sử. Chẳng hạn độc giả muốn biết về sách giáo lý, chỉ cần tìm trong cột một số 7, và xem trong các thời kỳ, sẽ thấy tới thời kỳ 5 mới có sách giáo lý Rôma (1566), tới thời kỳ 6 mới có sách giáo lý giáo hội công giáo (1992) và Youcat (2011). Muốn biết về giáo lý viên thì tìm cột 4, và thời kỳ 5 mới có giáo lý viên giáo dân cho đến nay. . .

Tôi có 2 giờ ban sáng và 2 giờ ban chiều. Ngày đầu tiên, tôi thấy trong hội trường có lớp thần học 1 và thần học 2, một số đại diện 5 dòng tu khoảng 100 thính giả. Tôi mở đầu với các thính giả: hôm nay tôi chia sẻ về kinh nghiệm dạy giáo lý của giáo hội mà trong suốt 20 thế kỷ giáo hội đã thực hiện. Tôi hy vọng từ đó quý thầy và các tu sĩ sẽ rút ra được bài học dạy giáo lý là gì, phải dạy cái gì, dạy cách nào… rồi tôi mở đường cho các thính giả là còn phải tiếp tục học hỏi và đổi mới cho phù hợp với người học giáo lý và hoàn cảnh của họ. Sau một ngày tôi giao lưu với thính giả, thấy mọi người rất phấn khởi nói với tôi là rất thích thú, hài lòng và tự tin đã hiểu được dạy giáo lý là gì, phải làm gì, và thấy còn phải học nhiều hơn nữa… Hôm sau tới hội trường, tôi ngạc nhiên vì hội trường chật ních phải thêm ghế, thêm loa để nghe.

Tôi mong giáo lý viên nào chưa có được cái nhìn như vậy có dịp được học hỏi để nắm vững được công việc của mình.

2 – Khám phá cái độc đáo của Youcat Việt Nam

Cuốn Youcat chính thức chỉ đăng thư giới thiệu của đức Bênêđictô XVI ở đầu sách thôi. Youcat Việt Nam có thêm phần giới thiệu và hướng dẫn sử dụng chung ở đầu sách, và đến mỗi phần trong 4 phần còn có dẫn nhập riêng để nêu lên những độc đáo trong phần. Tôi thêm hai phần dẫn nhập chung và riêng này nhằm giúp độc giả Việt Nam khám phá được nhiều điều mới và lý thú. Bởi vì trước khi dịch tôi đã đọc cẩn thận và ghi chú cái độc đáo của từng câu hỏi thưa, cách giải nghĩa, các chứng từ, các kinh nghiệm đã hiểu và đem thực hành trong đời sống…mà tôi chưa từng gặp trong các sách giáo lý khác. Chính cái độc đáo của Youcat  nằm trong các giải nghĩa, kèm theo các tư tưởng và chứng từ, làm cho Youcat sát với đời sống chứ không phải chỉ có giáo thuyết. Có những chia sẻ và kinh nghiệm mà tôi cho rằng phải do các bạn trẻ nam nữ góp phần chứ không do các linh mục hay giám mục, chẳng hạn câu 158, câu 219…

Vậy giáo lý viên nào chưa kịp đọc và theo dõi các phần dẫn nhập chung và riêng thì còn thời giờ để khám phá.

3 – Giáo lý viên hay giảng viên giáo lý

Đây là vấn đề được nhiều người đem ra bàn cãi, nhiều anh chị em giáo lý viên cũng hỏi tôi. Các bạn có thể mở Google: “Nhật ký truyền giáo – Từ ngữ nhà đạo”, để xem cuộc trao đổi giữa linh mục Piô Ngô Phúc Hậu và Nguyễn Ngọc Huynh vào năm 1994. Có thể xem trong “Từ vựng công giáo” của linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ bàn về giáo lý viên, truyền đạo viên. Sau khi xem ý kiến của ba vị trên tôi thấy có hai cụm từ được dùng là: giáo lý viên và giảng viên giáo lý. Cha Piô Ngô Phúc Hậu và Nguyễn Ngọc Huynh ủng hộ dùng giảng viên giáo lý. Cha Stêphanô Huỳnh Trụ có ý kiến là “cụm từ giáo lý viên được coi là chưa thích hợp cho lắm, phải tìm từ khác thay thế, nhưng từ giáo lý viên vẫn thích hợp hơn, hoặc để rõ nghĩa hơn, có thể dùng từ giảng viên giáo lý” (Từ điển trang 196). Phần tôi vẫn bức xúc về cả hai cụm từ trên vì cả hai đều chưa thích hợp với căn tính của giáo lý viên mà các đức giáo hoàng mới đây đã xác định. Năm 1979, trong Tông huấn về việc dạy giáo lý, đức Gioan Phaolô II gọi “Đức Giêsu là Thầy dạy duy nhất” (số 7, 8), “giảng dạy bằng tất cả đời sống mình” (số 9). Năm 1997 Bộ giáo sĩ của đức Gioan Phaolô II phát hành bản “Chỉ dẫn tổng quát về dạy giáo lý”, trong phần đào tạo giáo lý viên có nói rằng: “vấn đề là phải đào tạo các giáo lý viên để họ có khả năng không những giảng dạy mà còn huấn luyện sống đời Kitô hữu toàn vẹn bằng cách nâng cấp nhiệm vụ khai tâm, giáo dục và giảng dạy. Nói cách khác, đào tạo các giáo lý viên vừa là thầy dạy, vừa là nhà giáo dục, vừa là chứng nhân (số 237). Còn đức Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui Phúc âm gọi “Đức Giêsu là Phúc âm vĩnh cửu” (số 11) và nhắc lại lời đức Phaolô VI “Đức Giêsu là người Phúc âm hóa đầu tiên và vĩ đại nhất” (số 12), và trong toàn thể Tông huấn ngài dùng người Phúc âm hóa (evangelizer).

Phần tôi, tôi thấy cả hai cụm từ đều chưa thích hợp cần phải tìm từ khác. Tuy nhiên đang lúc chưa tìm ra, tôi chọn dùng giáo lý viên nhưng phải giúp giáo lý viên ý thức là mình có ba vai trò phải chu toàn một trật là: làm thầy dạy, làm nhà giáo dục, làm chứng nhân như Chúa Giêsu là giáo lý viên số một. Tôi không chọn dùng giảng viên giáo lý vì từ đó chỉ nói đến một vai trò là thầy dạy, không khác gì giáo viên ngoài đời, có thể giảng dạy rất giỏi, nhưng không giáo dục, không làm chứng…như thế hạ giá trị của giáo lý viên. Một giáo lý viên của Chúa Giêsu, của Hội Thánh mà chỉ giảng dạy, nhưng không giáo dục đức tin cho các em, không sống làm chứng cho các em thì lấy gì mà Phúc âm hóa các em.

Tôi ước mong những chia sẻ của tôi góp phần giúp các giáo lý viên thăng tiến hơn trong sứ vụ Phúc âm hóa các em.

Linh mục Antôn Nguyễn Mạnh Đồng

Nhà Hưu dưỡng linh mục Cần Thơ 2016

 

13. TRANG QUỚI CHỨC

CHUYỆN VỀ ADAM

Chuyên kể rằng, một ngày nọ sau khi  Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, phải khổ cực để có cái ăn cái mặt, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời nhưng vẫn không thể nào có được cuộc sống như xưa. Buồn chán, tuyệt vọng. Trong lúc tâm trạng bi đát như thế thì Lu-xi-phe đến dùng những lời ngọt ngào dụ dỗ Adam đi đánh bài. Y nói rằng chỉ cần một chút vận may là có thể đổi đời mà không phải khổ cực như bấy lâu nay làm cho lắm tắm chẳng có quần thay. Adam vốn thiệt thà, thương vợ vì mình mà sống đời nghèo khổ nên khấp khởi nhận lời Lu-xi-phe lên đường.

Đến casino Lu-xi-phe cho các tay đàn em giả làm những tay chơi mồi, ván nào cũng thắng, nhìn cảnh hốt bạc dễ dàng như thế lòng Adam như mở hội nghĩ thầm từ nay, vợ con mình sẽ lên hương, dễ ăn thế mà sao trước giờ Thiên Chúa lại giấu không cho mình biết ?!!!

Được Lu-xi-phe bảo kê, Adam vay được một số tiền lớn để làm vốn đánh bạc. Lúc đầu vận may ào ào kéo tới, làm cho ông hết rụt rè lo sợ cứ đặt và đặt… càng đặt càng to. Thế nhưng lần lần thời thế bắt đầu đảo vận, tiền vốn cạn đi lúc nào không hay. Bấy giờ muốn gở nhưng không ai cho vay Lu-xi-phe xúi thế chấp Eva lấy tiền gở nợ. Đang lúc say máu ăn thua, Adam đồng ý thế chấp vợ mình lấy tiền. thế nhưng, vận rũi cứ đến, tiền hết sạch, bấy giờ Adam vẫn không nguôi tiếc nối vận may của mình nên quyết định thế chấp cả mạng mình với quyết tâm có tiền chuộc thân và Eva vợ mình. Nhưng ông đâu có ngờ đó chính là cạm bẩy của Lu-xi-phe. Canh bạc kết thúc cũng chính là lúc ông biết được bộ mặt thật của kẻ đã xúi giục ông đi đến sòng bạc này. Thế nhưng mọi sự đã hoàn tất, muộn rồi ! Giờ đây, thân bất do kỷ, ông chỉ còn biết tự trách mình mà thôi.

Thế rồi tin đồn về vợ chông Adam được thiên thần Gabriel báo lại cho Chúa. Tuy từ lúc đuổi hai ông bà ra khỏi vườn Địa Đàng, không con dạo chơi với họ, nhưng lòng Chúa vẫn không nguôi thương nhớ, dự định sau một thời gian, khi Adam Eva hiểu được hậu quả của sai lầm mình gây ra sẽ gọi trở lại Địa Đàng nhưng chưa kịp thì giờ đây Lu-xi-phe đã ra tay. Làm thế nào đây ? Sau khi bàn tính, các Ngài đã quyết định: bằng bất cứ giá nào cũng không để Adam Eva lọt vào tay ma quỷ và nhiệm vụ giải phóng họ được giao cho Chúa Con.

Ngài đến sòng bạc hỏi thăm tin tức về Adam Eva và cho biết ý định chuộc họ về. chủ sòng bạc thẳng thắng ra điều kiện : mạng đổi mạng. Điều kiện quá ngặt nghèo. Sau khi đã bàn bạc với nhau, các Ngài đã chấp nhận điều kiện ấy và thế là Chúa Con đã chấp nhận làm Adam khác để giải thoát cho Adam và Eva. Với giao kèo này Lu-xi- phe lại có thêm một mối hời to vì đổi tớ lấy chủ !

Sau khi được trở về từ cõi chết, trong lòng của Adam tràn ngập những câu hỏi về quyết định lạ lùng của Thiên Chúa, một ngày nọ vì không chịu đựng được nữa, ông đã đến hỏi Chúa: nguyên do tại sao Chúa đã làm như thế? Sao Chúa lại cứu kẻ tội lỗi xấu xa như con bằng chính Con Một trọn hảo của mình ? Chúa Thánh Thần liền đáp: đơn giản chỉ vì Ta thương con. Adam lại hỏi nhưng tại sao Chúa lại bỏ ra một cái giá quả đắt như vậy để chuộc con về. Chúa Cha đáp: chỉ vì con là hình ảnh của Cha.

Lúc đó Adam mới ngỡ ngàng: Ồ, ra là như vậy !

Thường khi chúng ta – con cháu A đam – nghĩ Chúa tốt, biết Chúa tốt, nhưng chưa bao giờ thật lòng cảm nhận Lòng Thương Xót Chúa để thành tâm hối cải ăn năn, trở về với Chúa.

 

14. SỐNG ĐẸP

Nguồn Sống Từ Máu Và Nước

Có phi lý chăng khi một con người đã thật sự chết lại còn tồn tại cả máu lẫn nước, là biểu trưng của sự sống, trong cơ thể mình? Hành động có vẻ khoan dung của tên lính nhằm giảm bớt sự đau đớn cho tử tội và cũng để đảm bảo rằng tử tội đã thật sự chết, chính là dùng giáo đâm vào cạnh sườn. Chính hành động này đã làm cho tất cả chúng ta, là những người tin, được thật sự nhận ra nguồn ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nguồn ơn cứu độ ấy chính là sự sống được tạo nên bởi dòng Máu nuôi dưỡng và dòng Nước thanh tẩy. Sự sống mới đã được khơi mào từ đây! Lòng thương xót của Thiên Chúa đã được tỏ hiện từ đây! Cùng đích của con người đã được mở ra từ đây!

Điều tuyệt vời mà không ai có thể làm như Thiên Chúa chính là lòng thương xót của Ngài được thể hiện mạnh mẽ, ngay cả trong cái nhẫn tâm nhất con người đã dành cho Ngài. Thiên Chúa đã cho con người thấy rằng: Ngài đã yêu chúng ta và yêu đến cùng tận. Tình yêu Ngài là sự trao ban không ngơi nghỉ. Tình yêu ấy không bao giờ dừng lại vì bất cứ lý do gì. Con người càng tệ bạc thì Thiên Chúa càng tỏ lộ mạnh mẽ tình yêu của Ngài. Điều đó đã được minh chứng rõ ràng qua những lời Ngài nói, hành động Ngài làm và qua chính hình ảnh của dòng Máu và Nước trên thập giá. Ngài đã nói gì với nhân loại chúng ta qua hình ảnh ấy?

Ai trong chúng ta cũng hiểu tầm quan trọng của máu trong cơ thể mình. Máu quyết định sự sống và sự phát triển của con người. Ngày nay, khoa học còn phát hiện ra sự ảnh hưởng của từng nhóm máu đến tính cách của con người. Con người luôn có khuynh hướng tìm mọi cách để cơ thể mình được nuôi dưỡng bởi dòng máu tốt nhất và bổ dưỡng nhất. Cái thực tế ấy khiến chúng ta nhận ra ý nghĩa của dòng Máu từ nơi Trái Tim Đức Giêsu muốn diễn tả điều gì. Đức Giêsu đã mở ra cho nhân loại một nguồn sống mới, nguồn ấy sống được nuôi dưỡng bởi chính dòng Máu của Ngài. Dòng Máu mà không hề có một chút vương vấn của tội, không bị vẩn đục bởi thế tục. Dòng Máu ấy hoàn toàn tinh tuyền và trong sạch. Những ai được nuôi dưỡng bởi chính dòng Máu ấy sẽ được trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng Đã Bị Đâm Thâu, được phát triển toàn vẹn trong nhân cách của người đồ đệ và chắc chắn được thông chia sự sống vĩnh cửu mai sau. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến để nhận lãnh sức sống từ dòng Máu này. Đó chính là kín múc tất cả những gì mà Thiên Chúa trao ban vì lòng xót thương của Ngài. Đó cũng chính là sống thương xót như Thiên Chúa đã hằng xót thương chúng ta.

Cơ thể của chúng ta phần lớn là nước. Thiếu nước chúng ta sẽ chết. Một ngày, chúng ta đưa vào cơ thể của mình một lượng nước khá lớn. Nước càng trong sạch bao nhiêu thì cơ thể chúng ta sẽ khỏe bấy nhiêu. Sự ô nhiễm của nguồn nước chính là tác nhân gây ra biết bao bệnh tật cho con người. Đó cũng chính là thảm họa ngày nay mà con người phải chịu vì sự vô ý thức của mình. Khi thiên nhiên bị tàn phá, khi núi rừng bị khai thác, khi ngành công nghiệp phát triển…, con người sẽ phải lãnh lấy những hậu quả của nó, đáng kể nhất chính là sự cạn kiệt của nguồn nước.

Một cái nhìn chung chung ấy để chúng ta được sáng tỏ ý nghĩa thâm sâu của lòng thương xót qua Đức Giêsu đã tỏ hiện. Khổ hình thập giá mà Đức Giêsu phải chịu là do bởi đâu? Phải chăng Thiên Chúa đã quá đau lòng trước tội lỗi khủng khiếp của con người, khiến con người không còn giữ được hình ảnh ban đầu mà Thiên Chúa đã dựng nên? Phải chăng con người đã hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa, là Đấng mà con người phải tôn thờ, để chạy theo những tà thần khác? Phải chăng tình yêu của Thiên Chúa đã bị phủ nhận, làm cho con người không còn biết kiếm tìm và thể hiện tình yêu cho nhau? Thế nên, cái chết của Đức Giêsu đã khơi mào một sự thanh tẩy mới để rửa sạch mọi vết nhơ của trần gian này. Ngài mời gọi chúng ta hãy biết dìm mình trong chính dòng Nước ấy, để tâm hồn chúng ta được thật sự tinh tuyền trước mặt Thiên Chúa.

Dòng Máu và Nước của Lòng Thương Xót chẳng bao giờ cạn kiệt. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta hãy luôn biết chạy đến múc lấy nguồn ân sủng của Ngài. Chúng ta hãy biết làm cho chính mình luôn được tràn trề sức sống từ Thiên Chúa bằng cách sống lòng thương xót: Luôn nhận ra và cảm nghiệm Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài hằng tha thứ khi chúng ta biết quay trở về, Ngài sẽ đong đầy tình yêu Ngài vào trái tim ta, đổ tràn phúc lộc trên cuộc đời ta và dạy dỗ ta trước mọi biến cố trong cuộc sống.

Therese Trần Thị Kim Thoa

Nguồn: dongten.net

 

 

15. HỎI ĐÁP MỤC VỤ

NGHI THỨC HÔN PHỐI KHÁC TÔN GIÁO

CÓ ĐƯỢC CỬ HÀNH TRONG THÁNH LỄ KHÔNG?

1. HÔN PHỐI KHÁC TÔN GIÁO

Hôn phối khác tôn giáo là hôn phối giữa một bên là Công giáo và một bên không phải là Công giáo.

- Hôn phối giữa một người Công Giáo (một người đã được rửa tội trong Giáo Hội Công giáo hoặc đã được nhận vào Giáo Hội Công giáo sau khi được rửa tội) với một người đã được rửa tội thành sự trong một Giáo Hội hoặc một cộng đoàn Giáo Hội không  thông hiệp trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo (Chính Thống Giáo, Anh Giáo, Tin Lành...) được gọi là hôn nhân hỗn hợp (mixed marriage).

- Hôn phối giữa một người Công Giáo với một người không được rửa tội (Phật giáo, Cao Đài, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, hay không theo tôn giáo nào), hoặc với một người được rửa tội nhưng không được nhìn nhận là thành sự (Giáo phái Mormon, Nhân chứng Giê-hô-va....) được gọi là hôn nhân dị giáo hay hôn nhân khác đạo (disparity of cult).

2. CỬ HÀNH NGHI THỨC HÔN PHỐI KHÁC TÔN GIÁO

2.1. Hôn phối hỗn hợp

2.1.1. Thể thức pháp định

Hôn phối hỗn hợp được cử hành theo thể thức pháp định. Tuy nhiên, nếu xảy ra khó khăn nghiêm trọng trong việc tuân giữ thể thức giáo luật, thì Đấng Bản Quyền địa phương bên Công giáo có thể miễn chuẩn, tuy buộc phải có một hình thức công khai nào đó. Và giáo luật cấm không được cử hành hai nghi thức tôn giáo khác nhau; hoặc vị chứng hôn của hai tôn giáo lần lượt yêu cầu đôi bạn bày tỏ sự ưng thuận.

Điều 1127:

§1. Về thể thức được áp dụng trong hôn nhân hỗn hợp, phải tuân giữ những quy định của điều 1108; tuy nhiên nếu bên Công giáo kết hôn với bên không Công giáo thuộc lễ điển Đông Phương, thì thể thức cử hành theo giáo luật phải được tuân giữ để hôn nhân được hợp thức mà thôi; nhưng để hôn nhân được thành sự, thì buộc phải có sự can thiệp của thừa tác viên có chức thánh, miễn là vẫn giữ những luật khác phải giữ.

§2. Nếu có những khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân giữ thể thức giáo luật, Đấng Bản Quyền địa phương bên Công giáo có quyền miễn chuẩn khỏi giữ thể thức ấy trong từng trường hợp, nhưng phải tham khảo ý kiến của Đấng Bản Quyền địa phương tại nơi cử hành hôn nhân và phải giữ một thể thức công khai nào đó, để hôn nhân được thành sự; việc ấn định những quy tắc để ban phép chuẩn nói trên một cách đồng nhất thuộc Hội Đồng Giám Mục.

§3. Dù trước hay sau khi cử hành hôn nhân theo giáo luật chiếu theo quy tắc của §1, cấm cử hành hôn nhân theo nghi thức tôn giáo một lần nữa để bày tỏ hay lặp lại sự ưng thuận hôn nhân; cũng không được cử hành nghi thức tôn giáo, trong đó vị chứng hôn Công Giáo và thừa tác viên không Công giáo cùng yêu cầu các bên bày tỏ sự ưng thuận, mỗi vị cử hành theo nghi thức của mình.

2.1.2. Có được cử hành trong thánh lễ hay không?

Cuốn “Nghi Thức Cử Hành Hôn Nhân”, ấn bản mẫu II, 1991, số 36, quy định như sau: “Nếu là hôn nhân giữa một người Công giáo và một người có rửa tội ngoài Công giáo, phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân ngoài thánh lễ (số 79 - 117). Nếu cần và có phép của thường quyền sở tại, có thể cử hành trong thánh lễ (số 45-78). Riêng về việc cho người không Công giáo rước lễ, phải giữ những luật đã quy định cho những trường hợp khác nhau.”

2.2. Hôn phối khác đạo

2.2.1. Thể thức pháp định

Cuốn “Nghi Thức Cử Hành Hôn Nhân”, ấn bản mẫu II, 1991, số 36 quy định như sau: “Nếu là hôn nhân của một người Công giáo với một người dự tòng hay chưa rửa tội, thì dùng nghi thức hôn nhân khác đạo (số 152-178) với những thay đổi đã được dự liệu cho những hoàn cảnh khác nhau.”

Đối với người chưa Rửa Tội, không đọc câu: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” khi trao nhẫn (x. số 167).

2.2.2. Có được cử hành trong thánh lễ hay không?

Nghi thức Hôn nhân khác đạo có thể được cử hành trong nhà thờ hay tại một nơi thích hợp khác (Điều 1118 §3; “Nghi Thức Cử Hành Hôn Nhân”, ấn bản mẫu II, 1991, số 152).

Tuy nhiên, nghi thức Hôn nhân khác đạo không dự trù trường hợp cử hành trong Thánh lễ.

Lm. LG Huỳnh Phước Lâm

Nguồn tin: gplongxuyen.org

 

 

16. SỐNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY

NGƯỜI CHA NHÂN TỪ

Lc 15, 1 - 3. 11 - 32

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi xúc động và ngạc nhiên khi hiểu ra tấm lòng bao dung, nhân hậu của Chúa Giêsu. Có nhiều bài Tin Mừng làm nổi bật lòng nhân từ của Chúa. Chúa nhật thứ IV mùa chay, năm C, thánh Luca trình bầy bài Phúc Âm nói về “Người Cha nhân hậu”. Đây là bài Tin Mừng ghi đậm nét đẹp, nét dễ thương và nét tinh tế, nhạy cảm của người cha. Chúa nhật hôm nay được mệnh danh là Chúa nhật hân hoan. Chúa nhân từ luôn giang đôi tay đón nhận chúng ta trở về như người cha đã đón nhận đứa con hoang phung phí trở về.      

Lòng nhân hậu của người cha trong Chúa Nhật này diễn tả tâm trạng của Chúa Giêsu khi thấy những người con của mình thực tâm thống hối quay về với Ngài. Đoạn Tin mừng cho thấy người cha hiền hậu luôn yêu thương con của mình dù rằng con thứ đã được chia gia tài, rồi tự đi xa, phung phá tất cả tài sản, gia tài và sau khi đã kiệt quệ không còn lối thoát, y đã trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, không nổi giận, không lên án, không trừng phạt, hay trừ khử con.Trái lại, khi thấy bóng cậu từ xa, ông đã mau mắn, vội vã ôm chầm lấy con, hôn lấy hôn để, vui mừng đến khôn tả. Ông đã cho mặc áo mới, lấy nhẫn xỏ vào tay cậu, đã cho xỏ giầy vào chân cậu.

Tấm lòng yêu thương, nhân hậu của ông đã khiến ông quên đi tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng, ông đã không còn áy náy lo âu vì con ông đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm lại được. Ông đã ôm chầm lấy đứa con hoang và giờ đây trước mắt ông đứa con ông đang ôm là đứa con ông hằng mỏi mòn chờ trông. Người cha sung sướng mở tiệc linh đình để thết đãi ăn mừng cậu con trai trở về cùng với bà con lối xóm. Đây là cuộc đón tiếp, ăn mừng hết sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của người con hoang trở về. Người anh cả ngoài đồng về, nghe thấy tiếng đàn ca, hỏi ra anh mới biết em anh đã trở về sau một thời gian dài xa vắng ở nơi phương trời xa, nên cha anh đã mở tiệc linh đình đón tiếp em anh trở về. Anh đã không vui, không mừng mà còn giận dữ, trách móc người cha, khiến cha già lại phải kiên nhẫn, nhún nhường, nhẫn nhục ra tận cổng đón anh, phân trần, năn nỉ, mời anh vào nhà chung vui và gặp đứa em của anh “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Để trấn an anh và để nói lên cả tấm lòng của ông, người cha già đã quả quyết với anh rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13, 31).

Câu chuyện này là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, nhân từ và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không phải từ trên cao nhìn xuống, một Thiên Chúa không phải hết sức nghiêm khắc, chỉ phạt chứ không tha thứ bao dung. Không Thiên Chúa “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (TV 135). Một Thiên Chúa luôn yêu thương, chạnh thương và hay tha thứ

Sở dĩ người anh cả không chịu vào nhà vì anh ta không thể tha thứ cho em. Anh ta không chịu vào nhà sợ quyền lợi của mình bị xâm phạm, bị lu mờ.

Anh đã không vào nhà vì anh không thể tha thứ cho người em. Anh đã không vào nhà vì anh không hiểu nổi lòng bao dung, quảng đại lớn lao của người cha.        

Người anh cả đã sống với cha từ lâu nay nhưng lòng anh thì xa cha. Anh đã không trái lệnh của cha nhưng chỉ là bổn phận chứ không vì mến yêu cha. Anh không hề gọi người em là em của tôi mà là đứa con của cha kia. Anh không cảm thông với đứa em trót dại và cũng không biết chia sẻ nỗi đau, nỗi khổ của người cha mất con.   

Người anh cả lộ rõ bộ mặt ích kỷ, đạo đức giả của mình. Anh là hiện thân của Pharisêu và kinh sư là những người tự cho mình là đạo đức, thánh thiện và muốn cho những người tội lỗi phải chết đi chứ không được cứu chữa. 

Mùa chay là mùa hối cải, quay về với Chúa. Tất cả mọi người kể cả người anh và người em đều phải quay trở về với cha, ăn năn sám hối, bước vào nhà với cha, phải từ bỏ thái độ ích kỷ, tự mãn, phải vứt bỏ nếp suy nghĩ cũ, xa xưa để trở về sống như lòng nhân hậu, bao dung, tha thứ của cha.   

Mùa chay mọi Kitô hữu phải trở về, phải thay đổi. Trở về là ôm lấy người em với lòng yêu thương và tha thứ. Trở về để sống trong ân huệ và tình thương vì cha là tất cả. 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống như Chúa yêu, xin cho chúng con biết tha thứ cho người khác như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Amen.

 

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY

TÌNH THƯƠNG và THA THỨ

Ga 8, 1 –11

Cái trớ trêu muôn đời của con người muôn thời, muôn thuở vẫn là việc người thì sáng việc mình thì tối, cái sà trong mắt mình không nhận ra mà cái rác trong mắt anh em lại thấy rõ rành rành. Tội lỗi mình tầy đình lại không ăn năn, trở lại mà người khác gặp khó khăn lại cho rằng họ tội lỗi. Tin Mừng của thánh Gioan 8, 1 - 11 là một bằng chứng hùng hồn về việc mau mắn kết tội người phụ nữ ngoại tình của muôn lớp người trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu. Còn Chúa nghĩ sao về người phụ nữ khốn khổ, đang run lầm cập trước bao lớp người sẵn sàng ném đá bà? 

Các ông Pharisiêu và luật sĩ là những người cầm đầu tôn giáo thời Chúa Giêsu, họ tự mãn, huyênh hoang cho mình đạo đức, hơn người, họ tự cao tự đại cho mình thánh thiện vì giữ tỉ mỉ các luật đề ra trong sách luật. Quả, họ bầy ra nhiều thứ luật lệ để cho người khác giữ chứ một ngón tay họ cũng không sờ vào để lay thử. Chính vì thế, hôm nay, như thường lệ, Chúa Giêsu đang giảng dậy cho dân chúng về giáo lý, về Nước Thiên Chúa trước tiền đường Đền Thờ, các Pharisiêu và luật sĩ kéo lôi một người phụ nữ sành sạch tới trước mặt Chúa Giêsu. Họ hăm hở kết tội vì người phụ nữ này bị bắt quả tang đang làm điều dâm ô. Tội ngoại tình đối với luật Môisê thì chỉ có chết. Luật cho ném đá người phạm tội cho đến chết. Tin Mừng viết: “Họ kéo người phụ nữ sành sạch”, kéo lôi người có nghĩa là chẳng còn coi người ấy ra gì nữa, chẳng còn tôn trọng phẩm giá, nhân vị của họ mà coi họ như con vật vì chỉ có con vật mới bị kéo lôi một cách dã mãn như cái kiểu luật sĩ, biệt phái và Pharisiêu đang làm đối với người phụ nữ phạm tội. Họ kéo người phụ nữ có tội đến trước mặt Chúa Giêsu để gài bẫy Chúa, nói: “Ném đá người phụ nữ phạm tội” thì Chúa lại đi ngược với Đạo tình thương, lòng nhân từ của Chúa và nói: Không ném đá Chúa sẽ vi phạm luật Môisen, đàng nào cũng dễ vướng vào bẫy họ giăng để bắt bẻ và kết án Chúa Giêsu. Thật ra, luật Môisen khoản này đã từ lâu không được áp dụng khắt khe nữa, nhất là đối với người La mã đang cai trị lúc đó, có lệnh cấm ném giết người. Tuy nhiên, đây chỉ là cái cớ để họ gày bẫy Chúa Giêsu mà thôi. Chúa Giêsu xem ra không mấy lưu tâm đến cáo trạng và thái độ hung hăng, đắc thắng của nhóm luật sĩ và Pharisiêu. Ngài cúi xuống, lấy tay viết trên đấy điều gì ấy. Thời gian nặng nề trôi qua và hình như Chúa muốn mời gọi mọi người có mặt lúc đó hãy nhìn vào nội tâm của mình. Sau đó, Chúa đứng thẳng lên và ung dung hỏi những người có mặt: “Ai trong các ngươi vô tội, hãy ném đá chị này trước đi”(Ga 8, 7 ). Rồi, Chúa Giêsu lại ngồi cúi xuống và lại viết trên đất. Bầu khí đã nặng lại thêm nặng nề, u ám hơn. Đứng trước Chúa Giêsu, họ thấy khó nuốt, khó thắng được Ngài, nên kế thượng sách là lẩn trốn đi. Vì giữa người phụ nữ phạm tội ngoại tình và những người có mặt lúc đó đối với Chúa Giêsu chưa chắc ai là người tội lỗi hơn ai! 

Tin Mừng thánh Gioan viết tiếp: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ những người lớn tuổi” (Ga 8, 9). Những người lớn tuổi là những người đã kinh nghiệm trong cuộc đời, là những người được xem là khôn hơn người khác, họ chuồn trước là đúng. Lúc ấy, chỉ còn lại mình Chúa Giêsu và người phụ nữ thì đứng ở giữa (Ga 8, 9). Thánh Augustinô cho rằng: “Chỉ còn lại tình thương và tội lỗi". Sở dĩ Chúa Giêsu không kết án người phụ nữ theo thói con người, theo luật lệ cứng nhắc của con người vì Ngài có phương thế khác của Ngài và Ngài muốn cho tội nhân có cơ hội ăn năn, quay trở về với Ngài, đồng thời thanh luyện họ qua đau khổ. Chúa không kết án mà dành cho tội nhân sự hoán cải và lòng thương xót.          

Tin Mừng Gioan 8, 11 viết: “Tôi cũng vậy, Tôi không lên án chị đâu ! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Đối với người phụ nữ phạm tội Chúa vừa đòi hỏi vừa có lòng thương xót. Vâng, cái dí dỏm của đoạn tin Mừng này là sự hăm hở của những người tự coi là đạo đức, sự sợ sệt của tội nhân và lòng bao dung vô bờ của Chúa Giêsu xem ra hoàn toàn đối nghịch nhau. Tuy nhiên, tình thương thắng tội lỗi. Bao dung xóa hận thù.Hình ảnh người phụ nữ ngoại tình là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Chúng ta là gì mà dám kết tội anh em chúng ta. Chỉ có Chúa, Đấng hoàn toàn vô tội và tinh tuyền mới có quyền tha thứ tội lỗi cho chúng ta: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11). Thật là lời nhân từ và đầy ắp tình thương của Đấng vô cùng bao dung và nhân từ.

Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ có tội.

 

 

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU PHỤC VỤ

Lc 22, 14 - 23, 56

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu theo thánh Luca, chúng ta như thấy toát lên con người đầy nhân ái, hay chạnh lòng thương xót của Chúa Giêsu. Nói như thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu” quả không quá đáng chút nào. Phần nói về sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu là phần rất quan trọng các sách Tin Mừng. Tuy nhiên, theo thánh Luca ngoài việc nói về sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta dễ nhận ra các chủ đề khác như Chúa Giêsu vô tội, tội lỗi của các thượng tế, ký lục, biệt phái,thánh Phêrô chối Chúa, các môn đệ khác sợ hãi, chạy trốn tán loạn, ông Simon người Kyrênê vác đỡ thập giá cho Chúa Giêsu. Tin Mừng của thánh Luca thật gợi cảm, nói lên đầy đủ ý nghĩa của Con-Người-Chúa-Của-Đức Giêsu: tâm tình, những thống khổ của kiếp làm người và tính thần linh của Con Thiên Chúa làm người. Chúng ta dừng lại ở 3 điểm của trình thuật này: Phục vụ của Chúa Giêsu, yếu đuối của con người và sự tha thứ của Chúa Giêsu.

1. Chúa phục vụ như một người Tôi Tớ    

Trong thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2006 với chủ đề: “Sống yêu thương và phục vụ”. Phục vụ vì yêu thương. Yêu thương để phục vụ tha nhân và mọi người. Chúng ta thấy rõ trong đoạn Tin Mừng nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Luca viết “Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”(Lc 22, 27). Chúa Giêsu làm gương cho các môn đệ bằng cách cúi xuống rửa chân cho các ông. Quả thực, cho tới lúc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, các ông cũng vẫn chưa hiểu thêm chút nào về việc Chúa Giêsu sẽ làm và trong bữa ăn tối Tiệc Ly, các ông cũng chỉ nói lên những lo lắng hết sức trần tục của các ông. Chúa Giêsu cảm thấy cô đơn vì các môn đệ hầu như muốn bỏ rơi Chúa hoàn toàn. Đọc lại Tin Mừng của Chúa Giêsu: Nhất lãm và Tin Mừng thứ tư của thánh Gioan, chúng ta như chứng kiến một chuỗi dài ngày sống của Chúa Giêsu ở trần gian là một chuỗi những ngày phục vụ, đặc biệt trong ba năm Ngài và các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Chúa và các môn đệ quên ăn, quên ngủ, cả chặng đường này là những ngày Chúa rao giảng không ngơi nghỉ cho dân chúng, cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền, làm phép lạ cho kẻ chết sống lại …Giáo Hội Việt Nam khơi lên tinh thần sống yêu thương và phục vụ để làm nổi bật gương của Chúa Giêsu mà mọi người, đặc biệt những Kitô hữu Việt nam phải noi gương bắt chước Chúa để sống phục vụ như Ngài.      

2. Sự yếu đuối của con người 

Đọc trình thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Luca cho thấy Phêrô, sau này là thủ lãnh và là đầu của Giáo Hội hoàn vũ: mau mắn, quyết tâm đó, nhưng lại dễ sa ngã, chối Chúa đến 3 lần. Phêrô được Chúa khen khi ông tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, được Chúa gọi là Kêpha nghĩa là Đá. Nền tảng Đá của Phêrô tưởng chừng vững chắc lắm nhưng ông lại yếu đuối: “Cản ngăn con đường cứu thế của Chúa và chối Chúa đến không thương không tiếc”. Các môn đệ khác thì bỏ trốn Chúa một cách vô tội vạ (Mc 14, 5-52). Đời sống của người Kitô hữu là một cuộc hành trình đức tin nhiều thử thách, lắm chông gai. Con người có thể chối Chúa, có thể nhát đảm bỏ rơi Chúa vì thiếu lòng tin, nhưng cũng có thể vì danh vọng, vì quyền lợi mà quên đi đạo làm con Chúa.

3. Chúa tha thứ   

Tin Mừng của thánh Luca là Tin Mừng về lòng nhân từ, thương xót của Chúa Giêsu. Dụ ngôn người “Người Cha Nhân Hậu” (Lc 15, 11- 32) và sự tha thứ của Chúa đối với những kẻ làm thiệt hại mình (Lc 22, 34). Đọc toàn bộ Tin Mừng Nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta thấy rất nhiều dụ ngôn nói về lòng thương xót của Chúa chẳng hạn dụ ngôn “Người phụ nữ ngoại tình” (Ga 8, 1 - 11). Chúng ta có thể ghiền gẫm nhiều đoạn Kinh Thánh của Tin Mừng Nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan nói lên tình thương sâu xa của Chúa Giêsu đối với con người.  

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống yêu thương và phục vụ như Chúa. Amen.

 

CHÚA NHẬT PHỤC SINH

ALLÉLUIA, CHÚA ĐÃ PHỤC SINH

Ga 20, 1 -  9

Mỗi lần mừng lễ Phục Sinh, chúng ta đều không ít thì nhiều đều có những cảm nghiệm khác nhau về một Đức Kitô đã bị nhân loại đánh đòn, đã chịu đau khổ, đã bị treo lên cây thập giá và đã sống lại khải hoàn. Chúng ta cũng như các tông đồ xưa đều tung hô: Alléluia, Chúa đã sống lại thật rồi. Đó là Tin Mừng phục sinh. Tin Mừng được vang lên để tuyên xưng niềm tin Kitô giáo và mời gọi nhân loại luôn sống trong hy vọng. Với niềm tin, chúng ta tin Chúa đã sống lại và Ngài cũng sẽ cho chúng ta được phục sinh với Ngài.

Đọc lại trình thuật sách Sáng Thế, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì lúc đầu chưa tạo dựng con người, ngày thứ nhất ấy là ngày hoang vắng, mông lung, ngày thứ nhất, Chúa Giêsu phục sinh tái tạo con người mới, mở ra một trời mới, đất mới. Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại. Đây là niềm tin của mọi Kitô hữu, niềm tin của đạo công giáo.Ngày thứ nhất trong tuần, sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, bị chết trên thập giá và Chúa được chôn cất trong mồ đá…Nếu ngày hôm ấy, các người phụ nữ ra mộ ngay từ sáng sớm tinh mơ, mà mộ vẫn còn đóng kín, thì quả thực không có Tin Mừng phục sinh. Nhưng cả Maria Mađalêna, cả Phêrô và một vài người phụ nữ khác đã nhìn thấy mộ trống. Các bà và Phêrô chẳng hiểu thực hư thế nào! Tuy nhiên, không có sự ngạc nhiên, không hiểu và không có mộ trống thì không bao giờ có Tin Mừng phục sinh. Mình Gioan khi thấy mộ trống, khi thấy khăn liệm xếp gọn gàng một nơi, khăn phủ đầu cuộn lại để ở một nơi, Gioan đã tin ngay Chúa sống lại (Ga 20, 5 - 8).

Gioan đã có niềm tin thật sự bởi Chúa đã ban cho ông mặc dầu lúc đó các môn đệ khác và nhiều người đã được nghe nói cách này cách khác về việc Chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, họ vẫn chưa hiểu lời Thánh Kinh (Ga 20, 9); Cv 2, 24 - 31, 13, 32 - 37).

Đức Giêsu Kitô đã sống lại thật. Đây là niềm tin. Niềm tin này đã được các tông đồ tuyên xưng mạnh mẽ và các người phụ nữ là những người đầu tiên loan báo Tin Mừng Chúa sống lại. Ngay từ thời ấy cho tới thời đại văn minh hôm nay, nhiều người đã hả dạ vì tin rằng Chúa đã chết thật rồi. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người tin yêu Chúa, họ chỉ cần nhìn thấy xác Chúa là đủ. Muôn thời từ khi Chúa sống lại, nhiều người đã tin, đã tìm gặp Chúa và họ đã gặp Chúa bằng nhiều cách hoàn toàn khác nhau. Người ta tin rằng chỉ cần có con mắt đức tin và lòng nhiệt thành như Gioan là nhận ra Chúa không cần phải bận tâm, lo âu và hoang mang tự hỏi: “Người ta đã lấy mất xác Chúa rồi, không còn trong mộ nữa; chẳng biết họ để Người ở đâu ?” (Ga 20, 2). Đức tin sẽ giúp con người nhận ra Chúa phục sinh. Chúa luôn hiện diện khắp nơi nhưng Chúa vẫn bị người ta làm lu mờ vì không dám làm chứng cho Chúa. Chúa đang có đó, luôn có mặt ở khắp mọi nơi, miễn là con người có thành tâm thiện ý, tìm gặp Ngài. Với con mắt đức tin, nhân loại sẽ tìm gặp được Chúa và nhân loại sẽ hiểu ra rằng Chúa đã sống lại thật rồi, Alléluia.

Lạy Chúa, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện giữa nhân loại và đang có mặt khắp mọi nơi. Alléluia. Amen.

 

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH

BÌNH AN CHO ANH EM

Ga 20, 19 - 31

Sống ở đời cơm, áo, gạo, tiền đầy đủ là ước vọng của mọi người. Tuy nhiên, có cơm ăn, có áo mặc nhưng đời sống không vui, không an bình vẫn chưa đầy đủ. Do đó, con người ở mọi thời đại vẫn có những ước mơ, những mong ước có cuộc sống an bình, tâm hồn thư thái. Đó là ước nguyện chân chính và thiết thực. 

Muôn thời con người vẫn sống trong hồi hộp đủ thứ: nào thiếu ăn, thiếu mặc, lo sợ bệnh tật, sợ hãi chiến tranh, thiên tai lũ lụt, bão táp … Sống trong những tâm trạng và những hoàn cảnh như thế thì làm sao có an bình ? Có những người đã sống trong tuyệt vọng, buông xuôi tất cả. Sự lo âu, sợ hãi cũng bao trùm cả các môn đệ, những người đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, cất nhắc, những người đã được Chúa nuôi dưỡng, dạy dỗ, các Ngài đã được đón nhận Tin Mừng, được Chúa mạc khải và vén mở con đường thập giá, thế mà khi Chúa bị bắt, bị lên án và bị treo trên thập giá thì ôi thôi các Ngài đã hết sức lo âu, sợ hãi, thất vọng không hề dám đi đâu cả, khi ở với nhau trong nhà thì các Ngài cũng sợ sệt phải đóng kín cửa cài then (Ga 20, 19). Sự sợ hãi ấy tưởng chừng không bao giờ chấm dứt nhưng thật bất ngờ, Chúa Phục Sinh đã hiện đến với các Ngài và đã nói với các Ngài đến ba lần: “Bình an cho các con” (Ga 20, 19; 21 và 26). Các môn đệ của Chúa chỉ hết lo sợ khi trước mặt của các Ngài, Chúa Giêsu đã giơ bàn tay bị đóng đinh và cạnh sườn bị đâm thâu. Thật lạ lùng và hạnh phúc cho các môn đệ. Chúa đã phục sinh thật và sự bình an của Ngài đã được trao ban cách nhưng không và hết sức hiệu quả cho các Ngài…   

Sự bình an của Chúa sống lại là bình an đích thực. Bình an của Chúa phục sinh là tình yêu, sự tha thứ. Chúa đã thứ cho con người, cho loài người. Nên, con người và nhân loại có được bình an. Chúa muốn mỗi người cũng biết chia sẻ bình an mà mình đã nhận lãnh nơi Chúa sống lại để chính họ cũng biết tha thứ cho anh em của mình và loan báo cho mọi người biết Thiên Chúa luôn yêu thương con người, luôn rộng lòng tha thứ khi con người thật lòng ăn năn sám hối trở về với Chúa. Bình an mà Thiên Chúa trao ban cho loài người, cho con người khác với sự an bình mà con người thường trao cho nhau. Sự an bình của Chúa là sự hòa bình đích thực trong tâm hồn, nơi thân xác. Sự bình an xưa các thiên thần đã loan báo ngày Chúa giáng trân: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Sự bình an chính là Tin Mừng, chính là Thiên Chúa. Sự bình an là tha thứ đến bảy mươi lần bảy, tha thứ không ngừng, tha thứ mãi mãi. Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô trao ban cho nhân loại, cho loài người, cho mỗi người ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Chúa là sự tha thứ, là ơn giải thoát khỏi tội lỗi và ban cho con người sự bình an, hòa bình và hạnh phúc viên mãn, trường cửu. Sự bình an của Thiên Chúa là Tin Mừng cứu độ, là chính Đức Giêsu, Đấng giầu lòng thương xót. Sự bình an ấy trường tồn muôn đời, muôn kiếp. Chính vì thế, Chúa sống lại là tình thương vô biên, an bình tuyệt đối cho mọi người. “Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống”.        

Shalom, lời chúc bình an của Chúa phục sinh là lời bình an thực Chúa trao ban cho những tâm hồn thành tâm thiện chí.  

Tôma thưa với Chúa phục sinh: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúa phục sinh là sự an bình vĩnh cửu cho Tôma, cho các môn đệ, cho các tông đồ và tất cả những kẻ có lòng ngay ở dưới thế.  

Lạy Chúa phục sinh, xin ban bình an cho chúng con như Chúa đã trao ban sự an bình của Chúa cho các môn đệ qua sự tác động của Thần khí. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

17. THẦN HỌC KINH THÁNH

TÌNH BẠN TRONG KINH THÁNH

Hầu như ai cũng có bạn. Người giỏi ngoại giao có thể khoe rằng mình có hàng chục người bạn. Nhưng cũng có người kén bạn, họ chỉ có một hay hai người bạn. Về mặt từ ngữ, “bạn là người quen biết và có tình cảm với nhau nhưng không phải là họ hàng.”(1) Bạn cũng có nhiều loại: bạn học, bạn nối khố, bạn cọc chèo, bạn đường, bạn đời, bạn hàng, bạn lòng, bạn rượu, bạn nhậu, bạn đồng nghiệp, bạn cùng sở làm, bạn tình, bạn trăm năm, bạn vàng … Thế nhưng, tùy theo mức độ tình cảm giữa chủ thể và đối tượng mà ta có những cấp độ của tình bạn, có thể tạm phân loại là: rất thân, thân, và quen sơ.  Với bạn rất thân, ta có thể trút hết tâm tình, đặt trọn tin tưởng, và lắm khi sống chết cho nhau. Riêng với bạn thân, ta cũng tin tưởng họ, giao du quan hệ thường xuyên, nhưng có những khoảng cách nào đó trong mối liên hệ giữa hai người. Còn về bạn quen sơ, họ có thể là những người bạn ta mới giao kết hay cho dù đã quen lâu, mối liên hệ tình cảm giữa hai bên chỉ là ngoài mặt, không có chiều sâu. Có rất nhiều những câu chuyện về tình bạn, nhưng câu chuyện hay nhất, tuyệt vời nhất là chuyện Chúa Giêsu đã chịu khổ hình và chết vì bạn hữu.  Qua đó, Ngài muốn chứng tỏ rằng “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13) Đọc Kinh Thánh, ta sẽ tìm thấy thêm nhiều câu chuyện hay về tình bạn, cũng như những nét đẹp của một tình bạn cao quí.

Kinh Thánh Nói Gì Về Tình Bạn?

Kinh Thánh không cho ta một định nghĩa rõ ràng chính xác về “tình bạn”, hay “bạn”, nhưng Cựu Ước và Tân Ước nói về tình bạn với nhiều khía cạnh. Đơn giản mà nói, tình bạn là mối liên hệ yêu thương tín cẩn và gần gũi giữa hai người (2). Tình bạn đó không giới hạn nơi người trần thế, nhưng còn bao hàm mối liên hệ bạn hữu giữa Thiên Chúa và con người. Trong sách Xuất Hành, ta biết được  “ĐỨC CHÚA đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau.” (Xh 33,11). Nơi sách Biên Niên Sử (2Bn 20.7) và sách tiên tri Isaia (Is 41,8) tổ phụ Abraham cũng được coi là “bạn” của Chúa. Riêng với tác giả sách Huấn Ca, những người bạn trung thành là vô giá và họ chính là món quà Chúa trao ban cho chúng ta (Hc 6,14-17) (3). Qua thời Tân Ước, tình bạn giữa Chúa và con người tỏ hiện rõ ràng hơn. Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ là bạn hữu của Ngài (Lc 12,4). Tình bạn đó thật cao cả vì Chúa đã hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống để cứu thoát bạn hữu mình. (4)

Chúa Giêsu đã nói về tình bạn giữa Chúa và con người.

“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15,12-15)

Thiên Chúa là Người Bạn Vĩ Đại Nhất

“Hãy đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa tay cho sạch; hỡi kẻ hai lòng, hãy tẩy luyện tâm can.”(Gc 4,8)

Cách Chọn Bạn Tốt

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Ăn chọn nơi, chơi chọn bạn”, hay “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”.

Trong Kinh Thánh, sách Châm Ngôn cũng dạy ta cách để chọn bạn.

“Người công chính dẫn lối cho bạn bè, nhưng đường ác nhân đi khiến chúng bị lạc.” (Cn 12,26)  “Đi với người khôn, ắt sẽ nên khôn, chơi cùng kẻ dại, sẽ mang lấy hoạ.” (Cn 13,20) 

“Đứa nhạo báng tìm khôn ngoan chẳng thấy, người hiểu biết gặp tri thức dễ dàng. Bạn hãy tránh xa đứa ngu si dại dột, vì biết rằng hắn chẳng có lời lẽ khôn ngoan.” (Cn14,6-7) 

“Đừng bè bạn với người hay nóng giận, chớ giao du với kẻ dễ nổi xung, kẻo con lại học đòi lối sống của chúng, khiến thân con mắc phải bẫy dò.” (Cn22,24-25)  “Anh em chớ có lầm: Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu.” (1Cr 15,33)

Cách Đối Xử Với Bạn

Chúng ta có thể tìm thấy những lời khuyên rõ ràng và chi tiết về cách đối xử với bạn nơi các Phúc Âm và nhất là các thánh thư Tân Ước

“Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.” (Lc 6,31)

“Hãy thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình.” (Rm 12,10)

“Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe. Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô.”(Eph 4,29-32)

“Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân (Cl 3, 12-14).

“Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.” (Pl 2, 3-5)

Tình Bạn Đáng Quý Trọng

“Bè bạn thương nhau mọi thời mọi lúc, vào ngày hoạn nạn chỉ có anh em.” (Cn 17,17)

“Hãy lắng nghe lời khuyên, đón nhận lời nghiêm huấn, để sau này bạn được nên khôn.” (Cn 19,20)

“Người khôn ngoan được nên mạnh mẽ, kẻ hiểu biết làm sức mạnh gia tăng.” (Cn 24,5)

“Sắt bén nhờ sắt, con người nên sắc bén nhờ bạn bè.” (Cn 27,17).

Hai người thì hơn một, vì hai người làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn. Người này ngã đã có người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng dậy cả !" (Gv 4,9-10)

Những Tình Bạn Đẹp trong Kinh Thánh

Cựu Ước

Đa-vít và Jô-na-than: Đa-vít nổi tiếng là người có lắm bạn vì ông sống chân tình và đối đãi tử tế với những người có cơ hội tiếp xúc với ông.  Ngoài tình bạn thân với Abiyatar (1Sm 22, 22-23), Nakhash (2Sm 10,2),  và Ittai (2Sm 15:19-21), tình bạn giữa Đa-vít và Jô-na-than được coi là nổi bật. Đa-vít được Chúa chọn làm vua thế cho Sa-ul, người mà lúc đó đang là vua Ít-ra-en. Jô-na-than, con của Sa-ul, kết bạn với Đa-vít và đã cố hết sức che chở Đa-vít, người đang bị vua cha tìm mọi cách để trừ khử. Jô-na-than đã không tìm cách mưu tìm quyền lực, trái lại, ông chỉ muốn hết lòng, hết nghĩa với bạn hiền Đa-vít. Vì thế, khi nghe Jô-na-than chết trận, Đavít đã khóc thương: “Giô-na-than, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy! Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ “ (1Sm 2, 26)

Những người bạn của ông Gióp: khi nghe tin ông Gióp gặp tai hoạ, ba người bạn của ông (Ê-li-phát, Bin-đát và Xô-pha) từ nơi xa đã kéo đến, “để chia buồn và an ủi ông. Từ xa, họ ngước mắt nhìn, nhưng chẳng nhận ra ông. Họ bật khóc; mỗi người xé áo mình ra và rắc tro lên đầu. Rồi họ ngồi xuống đất, bên cạnh ông, suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, vì họ thấy rằng nỗi đau khổ của ông quá lớn.” (G 2, 13). Trong sự im lặng, họ hiệp thông với ông Gióp. Họ tin rằng, sự hiện diện của họ bên cạnh bạn hiền đáng giá hơn vạn lời nói. Họ quả là những người bạn tri âm của ông Gióp.

Đa-ni-en và những người bạn:  Đa-ni-en có ba người bạn học thật thân. Khi các nhà thông thái Babylon giải không được thị kiến của Vua, Đa-ni-en và các bạn có nguy cơ bị xử chết chung với những nhà thông thái. Bốn người đã cùng cầu nguyện xin Chúa giúp và chính Đa-ni-en đã được Chúa mặc khải để giải được thị kiến của Vua. Họ đã tỏ cho vua Nabukôđônôsor thấy rằng Thiên Chúa là Đấng Tối Cao và Duy Nhất. Đa-ni-en sau đó đã cố gắng nâng đỡ hỗ trợ những người bạn tìm được việc làm và địa vị cao. (Đn 2, 49)

Tân Ước

Tình bạn giữa Chúa Giêsu với Mác-ta và Ma-ri-a và La-da-rô. Thánh sử Gioan đã thuật lại chi tiết việc Chúa cho La-da-rô sống lại (Ga 11,1-43). Qua trình thuật đó, chúng ta cũng nhận thấy Chúa có tình bạn thân với ba chị em nhà này. Cách họ nói chuyện với Chúa, thẳng thắn và thân tình:  "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết." (Ga 11,33). Thấy Ma-ri-a, khóc thương em mình là La-da-rô, Ngài cũng khóc. Người Do-thái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy! " (Ga 11,37). Thật vậy, Ngài thương bạn đến nỗi đã làm phép lạ để cứu bạn sống lại.

Thánh Phao-lô có những người bạn hỗ trợ và cộng tác với ông trong việc truyền giáo. Trong thư Rôma, chị Pơ-rít-ca và anh A-qui-la đã được nhắc đến như “những người cộng tác với tôi để phục vụ Đức Ki-tô Giê-su; hai anh chị đã liều mất đầu để cứu mạng tôi” (Rm 16,3-4). Trong thư Philipê, thánh Phao-lô viết về Ti-mô-thê và Ê-páp-rô-đi-tô: “Nhờ Chúa Giê-su, tôi hy vọng có thể sớm cử anh Ti-mô-thê đến với anh em, để chính tôi cũng được an tâm vì được biết tin tức về anh em. Chẳng có ai khác cùng chia sẻ một tâm tình với tôi và tận tâm lo lắng cho anh em…Anh ấy đã từng là một người anh em, một cộng sự viên, một chiến hữu của tôi, người mà anh em đã gửi đến giúp tôi trong lúc túng cực” (Pl 2, 19-26)

Nuôi Dưỡng Tình Bạn

Có được một người bạn đúng nghĩa là ước mơ của mỗi người chúng ta, như sách Huấn Ca diễn tả:

“Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc,

ai gặp được người bạn như thế, là gặp được kho tàng.

Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành,

và giá trị của người bạn ấy, không cân nào lường được.

Người bạn trung thành là phương thuốc xoa dịu cuộc đời,

những ai kính sợ Đức Chúa sẽ gặp được người như vậy.” (Hc 6,14-16)

Làm sao có được một người bạn, nếu tự thân chúng ta không trở thành một người bạn chân chính trước?  (5) “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.” (Lc 6,31). 

Chúa là người đi bước trước trong việc kết bạn: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. (Gn 14, 15)

Để có được một tình bạn tốt lành, chúng ta phải nuôi dưỡng mối liên hệ đó bằng tình yêu thương liên lỉ, biết chăm sóc và hy sinh cho nhau. Chúa Giêsu dạy: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Gn 15,12)

“Hy sinh tính mạng vì bạn hữu” là việc Chúa Giêsu đã làm để thanh tẩy con người và để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng mối quan hệ bạn hữu giữa Thiên Chúa và mỗi người chúng ta thật sâu đậm.  Qua đó, Ngài cũng xác định một tiêu chí cho một tình bạn hoàn hảo.

Tình bạn có tính tương tác. Chúng ta làm gì để đáp trả tình bạn cao quý đó?

----------------------

Chú thích:

1.       Mục từ “Bạn”, Đại Từ Điển Tiếng Việt, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin, Hà-Nội 1999

1.       Trang 602, Holman Bible Dictionary. Nashville,Tennesse 2004

2.       Herrmann, Jeanette V., OSB. “Relationships in the Book of Sirach”. The Bible Today, Jan/Feb 2014.

3.       Mục từ “Friedship and the New Testament”, The Modern Catholic Encyclopedia, Liturgical Press, Minnesota, 2004.

4.       "The only way to have a friend is to be one." Ralph Waldo Emerson

Luke Quang

Nguồn: gpquinhon.org

 

18. NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

BÀI 3. LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa

Được Biểu Lộ Qua Chính Tên Của Ngài

Câu chuyện sáng tạo đã diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng sau đó đã mặc khải cho Mô-sê tên của Ngài trong biến cố ở tại bụi gai trên núi Hô-rép. Nơi đây, Thiên Chúa đã tự mặc khải là Thiên Chúa của Ap-ra-ham, của I-sa-ác, và của Gia-cóp (Xh 3, 6). Thiên Chúa của các tổ phụ này luôn nhìn đến những nối thống khổ của dân Ngài, và lắng nghe tiếng kêu than của họ: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3, 7-8). Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận nỗi khốn cùng của con người, Ngài nói, Ngài hành động và can thiệp, Ngài giải phóng và cứu độ. Công thức “JHWH,” Đấng dẫn đưa dân Ngài ra khỏi Ai-cập, trở thành một cách diễn tả niềm tin nền tảng trong Cứu Ước: “Ta là JHWH-Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20,2).

Bốn mẫu tự này trong tiếng Híp-ri được tranh cãi và giải thích rất nhiều rồi, nhưng với người Do Thái đạo đức thì bốn mẫu tự này rất là thánh thiêng, đến nỗi họ không được phép phát âm bốn mẫu tự đó hay từ đó. Trong bản văn tiếng Việt của nhóm các Giờ Kinh Phụng Vụ, bốn mẫu tự này được chuyển ngữ là Ta là Đấng hiện hữu. Cha Nguyễn Thế Thuấn chuyển ngữ là Ta có sao Ta có vậy. Bản văn đại kết của tiếng Đức Einheitsuebersetzung, dịch là Ich bin der ich bin da. Trong bản TOB của tiếng Pháp là: Je suis qui je serai. Còn trong bản tiếng Anh của the New Jerusalem Bible thì: I am he who is. Theo Kasper, trong tư tưởng của người Do Thái, sein (động từ là – hiện hữu) không diễn tả một trạng thái yên tĩnh, mà diễn tả một năng động lớn. Nói khác đó, trong tư tưởng của người Do Thái, sein có nghĩa là một sự hiện hữu cụ thể có nhiều ảnh hưởng và ảnh hưởng mạnh mẽ. Như thế, việc mạc khải của Thiên Chúa: ta là Đấng hiện hữu, diễn tả Thiên Chúa hiện hữu trên con đường cuộc sống của con người, và Ngài ở với con người trong những lúc con người rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Ngài lắng nghe những lời kêu than của con người. Sự mạc khải tên của Thiên Chúa là một xác nhận cho giao ước giữa Thiên Chúa và con người: “Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa. Các ngươi sẽ biết rằng Ta, Đức Chúa, là Thiên Chúa các ngươi” (Xh 6,7). Sự hiện hữu của Thiên Chúa là sự hiện hữu cho dân Ngài và với dân Ngài. Từ ngữ lòng thương xót chưa xuất hiện trong mặc khải của Thiên Chúa trên núi Hô-rép, nhưng đã được diễn tả qua tên của Thiên Chúa, Đấng yêu thương và hiện hữu cho và với dân Ngài.

Tiếp nối với biến cố mạc khải ở Hô-rép là mặc khải ở núi Si-nai. Bối cảnh của câu chuyện là dân Ít-ra-en được Chúa giải thoát khỏi sự nô lệ ở Ai-cập, và Thiên Chúa trao cho dân Ngài Mười Điều Răn (Xh 20, 1-21). Nhưng ngựa quen đường cũ, dân Ít-ra-en lại bội tín và bất trung, chạy theo các thần thánh lạ lẫm, và thờ lạy con bò vàng. Thiên Chúa đã giận dữ và muốn trừng phạt dân Ít-ra-en. Mô-se đã cầu xin với Thiên Chúa, và nhắc Ngài nhớ đến lời hứa của Ngài. Ông đã cầu xin Chúa lòng thương xót và ân sủng: “Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài”. Một lần nữa Chúa đã mạc khải tên của Ngài: “Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Đức Chúa trước mặt ngươi. Ta thương (hen) ai thì thương xót (rachamin) ai thì xót” (Xh 33, 19). Lòng thương xót của Thiên Chúa ở đây được diễn tả với quyền năng và sự tự do tuyệt đối của Ngài. Thiên Chúa không quen với bất cứ cái khung đóng kín nào, chuẩn mực nào, ngay cả sự công bình theo nghĩa bình thường. Lòng thương xót của Thiên Chúa tương hợp với chính tên của Ngài. Ngài ra lệnh cho Mô-se hoàn thành bản Mười Điều Răn, Ngài không để cho dân của Ngài, dù bất trung và bội tín, rơi vào hố sâu của khổ đau mà không có lối ra. Thiên Chúa làm mới giao ước của Ngài với dân Ngài, và ban cho dân những cơ hội mới. Thiên Chúa làm điều này với tất cả sự tự do và đó là ân sủng hoàn toàn dành cho dân Ngài.

Biến cố mạc khải thứ ba về tên của Thiên Chúa cho Mô-se vào một buổi sáng khác. “Đức Chúa ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là Đức Chúa. Đức Chúa đi qua trước mặt ông và xướng: Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34, 5-6). Trong lần mạc khải này, lòng thương xót còn được diễn tả với sự trung tín của Thiên Chúa. Thiên Chúa trung tín với dân Ngài, dù dân Ngài có bội tín đến mấy. Đó là bản chất đích thật của Thiên Chúa: nhân hậu giàu lòng thương xót và trung tín. Trong các sách khác của Cựu Ước đều nhắc đến Thiên Chúa với lòng xót thương và trung tín.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Nguồn: dongten.net

 

 

19. MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Cảnh Đời Nghiệt Ngã!

“Trà Vinh”  hai tiếng rất thân thương đối với tôi!

Trà Vinh, một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, tiếp giáp biển Đông thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Đăc trưng, Trà Vinh có rất nhiều ngôi chùa cổ mang đậm lối kiến trúc Khơmer với những cây dầu cao vút quanh năm tỏa bóng mát. Đây cũng là tỉnh có nhiều người Khơmer sinh sống ở miền Tây. Đa số họ đều nghèo!

Người ta biết được Trà Vinh là như thế. Nhưng có mấy ai biết được Trà Vinh còn là nơi cưu mang nhiều, rất nhiều những mảnh đời bất hạnh khác.

Vâng! Thật vậy, ở những vùng sâu vùng xa, tận hang cùng ngõ cụt của vùng đất Trà Vinh đến nay vẫn còn có nhiều con người mang chứng bệnh phong cùi mà ai cũng khiếp sợ.

Đến xã Mỹ Cẩm, huyện Càng Long, theo lối mòn của những bờ ruộng, băng qua những cánh đồng lúa của vùng đất nhiễm mặn hơn  6 tháng/năm, ruộng đất chỉ để phơi nắng sau mùa vụ. Muốn vào thăm hộ bệnh nhân nầy phải đi qua những cây cầu tre lắc lẻo bắc ngang kênh rạch và còn đi vào sâu hơn nữa. Dọc theo hàng cây trâm bầu giữa cánh đồng im vắng ban trưa, xa xa có vài nấm mộ chắc không còn người thân nên cỏ xanh đã phủ kín … có một mái chòi lá ọp ẹp, vách phên trống trải. Đây chính là nơi che mưa che nắng quanh năm suốt tháng của bà Sinh.

Bà Sinh năm nay tuổi gần 70. Đôi tay cứng rắn khỏe mạnh của bà ngày nào nay đã bị vi trùng cùi đục khoét, làm rụng đi dần cả mười ngón. Dường như bà đã cam phận. Mỗi lần chúng con đến thăm, nhìn đôi bàn tay bà, trong lòng không khỏi bùi ngùi và không thể nào ngăn được dòng nước mắt.

Bệnh phong đã gặm nhấm cuộc đời bà gần 40 năm qua. Ngày ngày bà phải tận dụng đôi tay bị biến dạng nầy để tự lo cho mình.

Do mặc cảm của cơn bệnh quái ác nên mấy chục năm qua bà chưa một lần bước chân sang chơi với lối xóm. Không dám ngẩng đầu nhìn mặt ai, xa dần làng quê, chợ búa. Bà chưa hề biết cuộc đời bên ngoài đã thay đổi thế nào. Bà chấp nhận căn bệnh của mình, ngày ngày chỉ quanh quẩn bên mái chòi lá rách nát với người chồng mù lòa và đứa con tâm thần.

Trong mái chòi lá chỉ có duy nhất một chiếc giường tre nhỏ dành cho cậu con trai, phần nền nhà còn lại là nơi ngủ nghỉ của bà Sinh. Chiếc võng phía sau nhà là chỗ nghỉ ngơi quanh năm suốt tháng của ông.

Cách đây chưa được năm, một cơn bạo bệnh đã cướp đi người chồng. Gần đây hơn tháng, người con tâm thần cũng qua đời để lại cho bà một nỗi trống vắng, cô đơn vô tận.

Nay bà Sinh đơn côi chỉ sống dựa vào sự giúp đỡ của các ân nhân.

Dù cho dòng đời hôm nay có biến chuyển, kiến thức khoa học đã được thông truyền rộng rãi cho mọi tầng lớp, nhưng những con người bất hạnh nầy vẫn chưa thật sự được hòa nhập vào cuộc sống đời thường, dường như họ đã bị gạt ra bên ngoài xã hội. Họ vẫn luôn bị mặc cảm. Chính Ông, Bà, Cô Bác và Qúi  n Nhân xa gần  trong đó có Hội Bạn Người Cùi là những người đem lại niềm vui, sự hy vọng cho họ. Qua ông Bà Cô Bác và Qúi  n Nhân, những con người bất hạnh nầy họ biết họ còn được yêu thương, nâng đỡ, cảm thông và chia sẻ với nỗi khốn khổ họ đang gánh chịu.

Không phải chỉ có gia đình bà Sinh đáng thương mà thôi, nhưng còn nhiều, còn nữa. Dọc dài ba tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh là nơi các Chi Em Mến Thánh Giá Cái Mơn đang phục vụ công tác Tông Đồ, còn  hơn 500 bệnh nhân phong cùi chưa được chăm sóc. Con số không nhỏ. Ở vùng sâu, vùng xa nơi đồng ruộng, hẻo lánh là nơi họ cam phận và chờ mong được đón nhận tình thương!

Là người đang chịu trách nhiệm chăm lo mảng phong cùi, con không khỏi đau lòng khi nhìn thấy họ trong cơn đau, trong cảnh khổ, trong cái nghèo, trong sự xa lánh và lẻ loi mà mình chẳng biết làm gì và làm thế nào? Với khả năng nhỏ bé của một Nữ tu chẳng là gì, con chỉ là hạt cát bé nhỏ trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng con đã và đang trực tiếp đến với họ. Chúng con có sức khỏe, có tấm lòng yêu thương và bằng mọi cách muốn đến, muốn  xoa dịu  nỗi đau…của những cảnh đời nghiệt ngã!

Caritas Vĩnh Long

 

629    05-03-2016 10:25:08