Sidebar

Thứ Sáu
17.05.2024

Tinh thần thơ ấu

 

       

Tinh thần thơ ấu

Vài nét trong Kinh Thánh giúp đào sâu

Tháng Mân Côi mở đầu với lễ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giê-su, Tiến Sĩ Hội Thánh. Ta quen dịch chữ DOCTOR là tiến sĩ, mượn từ ngôn ngữ thời xưa, là người được tiến cử để vua đặt làm quan to, phục vụ dân nước. Từ la-tinh có nghĩa là “thày dạy”. Các thánh Tiến sĩ là các vị thánh được tôn phong như thầy dạy trong Hội Thánh, vì các ngài được ơn của Chúa để giúp cả Hội Thánh đi vào những điều giáo lý cao sâu.

Trong bản liệt kê các ơn đặc biệt để phục vụ Hội Thánh, thánh Phao-lô kể : “Trong Hội Thánh,  Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các Thầy dạy.” (1Cr 12, 28). Một nữ tu nhỏ bé trong đan viện Cát Minh ở Lisieux, chết lúc 24 tuổi, lại được phong làm Bổn Mạng các xứ Truyền Giáo, và ngày 19 tháng 10 năm 1997, Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã ghi tên chị vào hàng “Tiến Sĩ Hội Thánh”.

Thật khó tưởng tượng. Một nữ tu Cát Minh, khao khát được sai tới xứ Truyền Giáo, đã được chỉ định để qua sống ở Nhà Kín Saigon, nhưng Chúa lại cất về trước khi lên đường, thế mà làm thánh bổn mạng các xứ Truyền Giáo và Thầy Dạy Hội Thánh. Chúa làm những việc lạ lùng trước mắt chúng ta để chúng ta thấy Tình Yêu và Quyền Năng Thiên Chúa vượt xa đất trời, “muốn làm gì là Chúa làm nên”. Vị thánh nữ trẻ này khao khát được hiến dâng mạng sống mình để muôn người được cứu độ, và đã thành Tiến sĩ [Thày dậy] giúp Hội Thánh khám phá trở lại con đường thơ ấu của Tin Mừng.

Ngồi tại Giê-ru-sa-lem, trong ngày cuối của Lễ Lều, trong bầu khí ngột ngạt của lúc giao mùa từ hè sang thu, tôi không có tham vọng viết một thiên khảo cứu về tinh thần thơ ấu thiêng liêng, chỉ xin mạo muội nêu lên vài nét trong Kinh Thánh để giúp những ai muốn đi vào tận nguồn là Lời Chúa, đào sâu tinh thần thơ ấu thiêng liêng và sống triệt để nhờ sức mạnh của Lời Chúa.

1.      Trong Cựu Ước

Trong Cựu Ước trào lưu suy tư “Đệ Nhị Luật” (đứng đầu là sách Đê Nhị Luật) vén mở cho chúng ta bước khởi đầu của tinh thần thơ ấu thiêng liêng, khi chiêm ngắm nguồn gốc của dân tộc được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập để thiết lập Giao Ước Xi-nai, nhận họ làm dân của Thiên Chúa và chính Ngài là Chúa của họ, Ngài ban cho họ Luật để sống làm dân của Ngài, và cam kết bảo vệ họ, đưa họ vào Đất Hứa  và cho họ sống lâu dài ở đó, với điều kiện họ trung thành sống trong Giao Ước của Ngài.

Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất… Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ điềm thiêng… như Thiên Chúa đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” (Đnl 4, 32-34)

Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính là vì yêu thương anh em và để giữ lời hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập” (Đnl 7, 7-8).

Điều kiện duy nhất để được Thiên Chúa bảo vệ giữ gìn là`: “Anh  em hãy đi đúng con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống  lâu trên đất mà anh em sẽ chiếm hữu” (Đnl 5, 32-33). Chính Thiên Chúa đã giải thoát họ, chính Thiên Chúa đã đưa họ vào Đất Hứa chứ không phải tự sức họ làm được những điều ấy. Vậy thì phải ở lại trong Tình Yêu của Thiên Chúa, bằng cách bước đi theo đường lối của Thiên Chúa, đừng cậy sức mình, đừng theo các thần khác, cũng đừng cậy dựa vào quyền lực nào ở trần gian này. (Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, sẽ mời gọi :Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy… Hãy giữ những điều Thầy truyền [Ga 15, 7-10] ).

Sách Gio-su-ê cho thấy tất cả việc chiếm lãnh Đất Hứa dưới sự lãnh đạo của Giô-su-ê, là do Thiên Chúa thực hiện chứ không phải do sức của dân. Giô-su-ê đã cùng dân ôn lại lịch sử và tuyên lại Giao Ước ở Si -khem, trước khi cho dân tản mác, ai về lều nấy trên phần đất đã được chia cho họ (x. Gs 24).

Sách Thủ Lãnh cho thấy một thực tế phũ phàng là sau khi ông Giô-su-ê chết, rồi cả thế hệ ấy đã qua đi:

 “Con cái Ít-ra-en đã làm diều dữ trái mắt Đức Chúa, và đã làm tôi các thần Ba-an. Họ đã lìa bỏ Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã đi theo các thần ngoại lai … Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ bóc lột… Khi Đức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì Đức Chúa ở với vị thủ lãnh và Người cứu họ khỏi tay quân thùbao lâu vị thủ lãnh còn sống, vì Đức Chúa động lòng trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi họ bị đàn áp và ức hiếp. Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cha ông họ. Họ chạy theo các thần ngoại lai để làm tôi và sụp lạy chúng, chứ không từ bỏ những hành vi và đường lối ngoan cố của họ.”  (Gs 2, 11-19).

Đến khi họ đã lớn mạnh và thành một vương quốc, các ngôn sứ lại rát cổ bỏng họng tố cáo tội ác, kêu gọi họ tin tưởng vào Thiên Chúa và đi theo đường lối của Thiên Chúa, trung thành với Giao Ước, để được cứu thoát khỏi mọi đe dọa từ các nước láng giềng. Bây giờ thì ngoài tội thờ thần của dân ngoại, họ còn cậy vào sức mình và cậy dựa vào sự liên minh với các cường quốc, bị phía Bắc đe dọa thì họ quay sang dựa vào Ai-Cập ở phía Nam. Bị Ai Cập đe dọa thì họ cầu cứu phương Bắc. Ta hãy đọc vài trích đoạn tiêu biểu.

Ngày ấy các ngươi đã nhìn vào binh khí trong Cung Rừng và thấy thành Đa-vít có nhiều lỗ hổng. Các ngươi trữ nước ở hồ dưới. Các ngươi đếm từng ngôi nhà ở Giê-ru-sa-lem, rồi phá đi một số để củng cố tường thành. Các ngươi xây bể để chứa nước hồ cũ giữa hai lớp tường thành. Nhưng Đấng tác tạo cả thành đô, các ngươi lại không nhìn; Đấng từ lâu làm nên mọi sự các ngươi lại chẳng thấy.” (Is 22, 8-11)

Khốn thay những đứa con phản nghịch, chúng thực hiện kế hoạch, nhưng không phải của Ta, chúng ký kết thỏa hiệp nhưng không theo thần khí của Ta, cứ chồng chất tội này lên tội khác. Chúng đâu thỉnh ý Ta khi lên đường đi xuống Ai-cập, tìm sự che chở của Pha-ra-ô và núp bóng Ai-cập. Nhưng sự che chở của Pha-ra-ô sẽ khiến các ngươi phải thẹn thùng, và việc ẩn núp dưới bóng Ai-cập sẽ làm cho các ngươi phải nhuốc hổ” (Is30, 1-3).

Khi bị liên minh A-ram và Ep-ra-im đe dọa (Is 7, 1-17),

Bấy giờ lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió

Ngôn sứ I-sai-a được sai đến nói với vua:

Chuyện đó sẽ không xảy ra, sẽ không có… Nếu các ngươi không vững tin thì các ngươi sẽ không đứng vững” (Is. 7, 2.9)

Một điều lý thú khi đọc trong bản tiếng Hip-ri là chơi chữ: hai động từ vững tin và đứng vững cùng một gốc[1]. Họ có đứng vững được là nhờ Thiên Chúa chứ không phải do sức họ; họ “run như cầy sấy” khi mới nghe tin phe địch đã đóng quân sát nách, vì họ không tin vào Thiên Chúa mà dựa vào sức mình. Ngôn sứ công bố dấu chỉ của Thiên Chúa là “Em-ma-nu-en” sinh ra (Is 7, 14).

Họ được nghe tiếng Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vô hình, họ không thấy được không sờ được. Vì thế vừa nhận Luật Giao Ước xong, trong khi ông Mô-sê lên núi nhận Bia Chứng Ứơc, thì ở dưới h đã yêu cầu A-ha-rôn làm cho họ một ông thần để dẫn họ đi, nghĩa là một vị thần họ thấy được, sờ được và khiêng đi theo ý họ, muốn đi thì đi, muốn đứng thì đứng (x. Xh 32, 1-6).

Vì thế khi vào Đất Hứa, sống giữa các dân tộc có các vị thần sờ được, thấy được, họ dễ dàng theo các thần “ngoại bang” ấy thay vì nghe lời Thiên Chúa mà họ không thấy, không sờ được. Điều này dễ hiểu, như tục ngữ Việt Nam nói: “Trăm nghe không bằng một thấy”. Thậm chí vua Sa-lô-môn cuối đời cũng ngả theo các thần ngoại bang (x. 1V 11).

Ngay lúc Giê-ru-sa-lem đã bị Ba-bi-lon đe dọa, Thiên Chúa còn phải dùng ngôn sứ Giê-rê-mi-a để tố cáo:

Hãy cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi được ở lại nơi này. Đừng ỷ vào các lời giả dối sau đây: “Đền Thờ của Thiên Chúa, Đền Thờ của Thiên Chúa, đã có Đền Thờ của Thiên Chúa!”…

 Các ngươi ỷ vào những lời dối trá vô giá trị. Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề gian, đốt hương tế thần Ba-an và đi theo các thần lạ các ngươi không biết, rồi lại vào nhà này, nơi Danh Ta được kêu khấn, đến trước mặt Ta mà nói: “Chúng ta được an toàn!”, sau đó lại tiếp tục làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì? Phải chăng các ngươi coi nhà này, coi nơi Danh Ta được kêu khấn là hang trộm cướp sao? Ta, Ta thấy rõ hết.” (Gr 7, 3-11).

Sách ngôn sứ Xô-phô-ni-a (chỉ có 3 chương ngắn) có thể coi như một mô hình thu gọn của các ngôn sứ thuộc trào lưu Đệ Nhị Luật: mở đầu, ngôn sứ công bố Ngày của Thiên Chúa, rồi hạch tội Giu-đa và kêu gọi trở lại; sau đó ngôn sứ hạch tội các dân chung quanh, rồi quay lại hạch tội Giê-ru-sa-lem; cuối cùng ngôn sứ công bố các lời hứa cứu độ:

« Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa… Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!... Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa… Ngày ấy người ta sẽ bảo Giê-ru-sa-lem: Này Xi-on đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời. » Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi… Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽlấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. » (xin đọc hết Xp 3, 12-18).

Thánh vịnh 130/131 đúc kết kinh nghiệm lịch sử thành một thái độ, một con đường sống lòng tin vào Thiên Chúa:

 

Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi!                                                                                                          
Đường cao vọng chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu;                                                                                                          
hồn con con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình.                                                                                                
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui.                                                                                                   
Cậy vào Chúa Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.

 

Vài lời giải thích về thánh vịnh này. Lòng tự cao nghĩa là tự đặt mình lên cao, cậy dựa vào bản thân, cho mình là ngon lành, hơn hết mọi người, không cần đến ai. Mắt con chẳng dám tự hào, dịch sát là ngước lên cao,ám chỉ tới việc ngước nhìn lên nơi cao là nơi thờ thần của dân ngoại. Đường cao vọng chẳng đời nào bước,ám chỉ bước theo những quyền lực thế tục. Như vậy thánh vịnh này gợi lại ba điểm tựa mà các ngôn sứ đã tố cáo: dựa vào sức mình, dựa vào các thần ngoại bang (ngoài Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất) và chạy theo quyền lực thế tục. Con đường thơ ấu thiêng liêng cho cả dân tộc và cho mỗi người là cậy dựa vào một mình Thiên Chúa.

Trẻ thơ ở đây, [gamul trong tiếng Hipri], không phải là trẻ còn bú, nhưng là trẻ đã cai sữa[2] (3 tuổi), có thể đi, chạy, chơi một mình, nhưng chưa thể tự vệ, chưa thể tự kiếm ăn, hoàn toàn lệ thuộc cha mẹ để được bảo vệ, nuôi nấng (x. St 21, 8-11, chuyện It-ma-en và I-xa-ác trong ngày cai sữa cho I-xa-ác).

2.      Trong Tân Ước

Trong Tân Ước, chúng ta sẽ chú ý đến các sách Tin Mừng và một số thư của các Tông Đồ.

2.1  Trong các sách tin Mừng Nhất Lãm

Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta có gương Chúa Giê-su ưu ái trẻ nhỏ và  những lời giáo huấn về  việc đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ.

Tin Mừng Nhất Lãm nhiều lần kể về cách thức và lý do Chúa Giê-su ưu ái trẻ nhỏ.

Người ta dẫn trẻ em đến với Chúa Giê-su… Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng. (Mc 10, 13-16; Mt 19, 13-15;Lc 18, 15-17)

Khi các môn đệ thắc mắc trong lòng (Lc 9, 46-48) hoặc bàn tán với nhau (Mc 9, 33-37) xem ai trong các ông là người lớn nhất, hoặc hỏi Chúa Giê-su ai là người lớn nhất trong Nước Trời (Mt 18, 1-4) thì Chúa Giê-su “gọi một em nhỏ đến, đặt giữa các ông” (Mt), “đem một em nhỏ đặt giữa các ông” (Mc), “đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình” (Lc), rồi trả lời các ông. Trẻ nhỏ là mẫu mực của người lớn nhất giữa các ông, lớn nhất trong Nước Trời.

Mt 18, 3 nêu điều kiện quyết liệt để được vào Nước Trời: “Nếu anh em không trở lại mà nên giống như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”.

2.1.1  Tin mừng Thời Thơ Ấu trong Lu-ca 1-2 vận dụng lời ngôn sứ Ma-la-khi 3, 1 làm khung tổng thể chotrình thuật so sánh giữa vị Tiền Hô, “sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” và “Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người”. Trình thuật Truyền Tin cho Đức Trinh Nữ, như được dệt bằng sợi rút từ lời hứa về Em-ma-nu-en (Is 7, 14), các lời hứa cho vua Đa-vít (2S 7) và thánh vịnh mời gọi Xi-on vui mừng (Xp 3, 14-18). Lời thiên sứ chào Đức Mẹ, lời thiên sứ loan báo, lời Đức Mẹ hỏi thiên sứ và lời giải thích của thiên sứ về cách thức trinh nữ thụ thai và sinh con, đều rút từ những lời kể trên; đồng thời lời giải thích của thiên sứ còn gợi lên hình ảnh Vinh Quang Thiên Chúa như đám mây phủ đầy Lều Tạm (x. Xh 33, 9-10 và 40, 34-35) và Đền Thờ do Salomon xây (x. 1V 8, 10-11).

Bằng cách “rút sợi” từ lời loan báo và bài thánh vịnh mời gọi Xi-on vui mừng (Xp 3, 12-18), Lc đã cho thấy Đức Trinh Nữ Maria như là hiện thân của Cô Gái Xi-on, thì đồng thời cũng là hiện thân của tinh thần thơ ấu thiêng liêng mà ngôn sứ đã gợi lên: tìm nương ẩn nơi Danh Thiên Chúa. Thiên Chúa làm mọi sự nơi Đức Trinh Nữ Maria, còn Đức Trinh Nữ thì phó nộp hoàn toàn cho Lời Thiên Chúa: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ xảy ra cho tôi [= xin Người cứ làm nơi tôi] - như lời thiên sứ đã nói”. Lu-ca trình bày Đức Trinh Nữ Maria như là “hình tượng” (icon) của tinh thần thơ ấu thiêng liêng, để cho ta chiêm ngắm mà học theo.

Đến cuối sách Tin Mừng, Lu-ca lại cho ta chiêm ngắm chính Chúa Giê-su Con Thiên Chúa đã sinh làm con Đức Trinh Nữ Maria, bày tỏ tinh thần con thơ đối với Cha như thế nào qua buổi cầu nguyện ở núi Ô-liu và lời cuối cùng trên thập giá. Ở núi Ô-liu Con Thiên Chúa làm người đã bày tỏ với Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha”. Cầu nguyện xong, Người đứng lên đánh thức các môn đệ dậy, thanh thản đón kẻ đến nộp Thầy, và những kẻ đến bắt Người, phanh phui cho họ thấy: “Đây là giờ của các ông, thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22, 39-53). Suốt cuộc Khổ Nạn, Luca cho chúng ta chiêm ngắm một Chúa Giê-su thanh thản và im lặng, làm chủ tình hình, khiến Phi-la-tô, Hê-rô-đê và những kẻ muốn giết Người phải quay cuồng lúng túng. Lời cuối cùng của Chúa trên thập giá biểu lộ tình con thơ phó thác tột cùng: “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong Người tắt thở.” (Lc 23, 46). Lời “xin vâng” của Đức Trinh Nữ nhận làm Mẹ của Con Thiên Chúa nghe như “tiếng vọng trước” lời phó thác mà chính Con Thiên Chúa làm người sẽ nói lên bằng môi miệng con người trước khi kết thúc kiếp làm người trên thập giá.

2.1.2 Lu-ca cũng cho chúng ta một kiểu mẫu năng động khác là Si-mon-Phê-rô, ông đã trở lại và nên như trẻ nhỏ, ông đã dâng của lễ đẹp lòng Thiên Chúa theo lời thánh vịnh 51/50: “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát dày vò Ngài sẽ chẳng khinh chê” (câu 19), và Thiên Chúa đã tạo cho ông một tấm lòng trong trắng và đổi mới tinh thần cho ông nên chung thủy (câu 12). Quả vậy, ngày đầu khi Chúa gọi ông thì ông nhận ra mình là người tội lỗi không đáng Chúa ở gần (Lc 5, 8). Nhưng trên đường đi theo Chúa thì ông lại lớn lên trong sự tin tưởng vào chính mình, dám thách đố cả lời Chúa cảnh báo, cho mình là vững mạnh hơn mọi anh em (x. Lc 22, 31-34), dám theo Chúa vào tận trong sân dinh Thượng Tế, lại còn ngồi chen vào giữa đám tay sai vừa bắt Chúa Giê-su điệu về đây, cùng sưởi với chúng nữa (Lc 22, 54-55)          

 Điều phải đến đã đến. Nhưng Chúa đã cầu nguyện cho ông để ông khỏi mất lòng tin và trao cho ông sứ mạng làm cho anh em vững mạnh sau khi ông đã trở lại (Lc 22, 31-32), nên khi ông đã chối Chúa đủ ba lần và có tiếng gà gáy, thì Chúa quay lại nhìn thẳng vào ông, ánh mắt của Chúa đã xuyên qua màn đêm, vào tận đáy lòng ông, “ông nhớ lại Lời Người đã nói với ông, và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết” (Lc 22, 56-62).

Sau khi Chúa phục sinh, Chúa đã giữ lời hứa, tạo điều kiện cho ông thi hành sứ mạng làm cho anh em của ông vững mạnh. Anh em tin Chúa đã phục sinh, vì lời Si-mon làm chứng (Lc 24, 33-34).


539    15-10-2018