Sidebar

Chúa Nhật

05.05.2024

Tông Huấn Gaudete Et Exsultate Của Đức Thánh Cha Phanxicô : Chương Ba - 1

TÔNG HUẤN GAUDETE ET EXSULTATE CỦA Đức Thánh Cha PHANXICÔ

VỀ ƠN GỌI NÊN THÁNH TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY

CHƯƠNG 3

TRONG ÁNH SÁNG CỦA VỊ THẦY

63. Có thể có nhiều thuyết về điều gì cấu thành sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Những suy tư như vậy có thể hữu ích, nhưng không gì có thể soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và nhìn thấy cách giảng dạy chân lý của Người. Chúa Giêsu đã giải thích với sự giản dị tuyệt vời về ý nghĩa của việc nên thánh khi Người ban cho chúng ta Bát Phúc (xem Mt 5: 3-12; Lc 6: 20-23). Các Mối Phúc Thật giống như chứng minh thư của Kitô hữu. Vì vậy, nếu ai hỏi: “Người ta phải làm gì để trở nên một Kitô hữu tốt?”, thì câu trả lời thật rõ ràng. Chúng ta phải làm, mỗi người theo cách riêng của mình, điều Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Bài Giảng Trên Núi [66]. Trong Bát Phúc, chúng ta tìm thấy một chân dung Vị Thầy, mà chúng ta được mời gọi để phản chiếu trong cuộc sống hàng ngày của mình.

64. Từ “hạnh phúc” hay “phúc cho” trở thành từ đồng nghĩa với từ “thánh thiện”. Nó diễn tả sự thể là những người trung thành với Thiên Chúa và Lời Ngài, qua việc tự hiến, đạt được hạnh phúc thật.

LỘI NGƯỢC DÒNG 

65. Mặc dù những lời của Chúa Giêsu có thể nghe như thi vị, nhưng chúng rõ ràng là đi ngược lại cách mọi việc thường được thực hiện trong thế giới của chúng ta. Ngay cả khi chúng ta thấy sứ điệp của Chúa Giêsu hấp dẫn, thế giới đẩy chúng ta theo một cách sống khác. Các Mối Phúc Thật không tài nào là những gì tầm thường hay dễ thoả mãn, mà hoàn toàn ngược lại. Chúng ta chỉ có thể thực hành được chúng nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy sức mạnh của Ngài trên chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi tính yếu đuối, ích kỷ, tự mãn và kiêu ngạo của mình.

66. Chúng ta hãy một lần nữa lắng nghe Chúa Giêsu bằng tất cả tình yêu và lòng tôn kính xứng đáng với Vị Thầy. Chúng ta hãy để cho các lời của Người khuấy động chúng ta, thách đố chúng ta và đòi hỏi một sự thay đổi thật sự trong cách sống của chúng ta. Nếu không, sự thánh thiện vẫn sẽ chẳng khác gì một lời trống rỗng. Bây giờ chúng ta quay sang từng Mối Phúc một trong Tin Mừng Thánh Matthêu (x. Mt 5: 3-12) [67].

“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ”

67. Tin Mừng mời chúng ta nhìn kỹ vào tận đáy lòng mình, để xem chúng ta tim thấy sự an toàn trong đời mình ở đâu. Thường thì những người giàu có cảm thấy an toàn trong của cải của họ, và nghĩ rằng, nếu của cải ấy bị đe dọa, thì toàn thể ý nghĩa của cuộc sống trần thế của họ có thể sụp đổ. Chính Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta điều này trong dụ ngôn người phú hộ khờ dại: Người nói về một kẻ tự tin, nhưng thật khờ dại, bởi vì đã không nghĩ rằng mình sẽ chết ngay chính ngày hôm ấy (x. Lc 12: 16-21 ).

68. Sự giàu có không đảm bảo được gì cả. Thật vậy, một khi chúng ta nghĩ rằng mình giàu có, thì chúng ta có thể trở nên tự mãn mà chẳng để dành chỗ nào cho Lời Chúa, cho tình yêu đối với anh chị em mình, hoặc để thưởng thức những điều quan trọng nhất trong đời. Vì thế, chúng ta bỏ lỡ kho báu lớn hơn tất cả mọi kho báu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi những người có tinh thần nghèo khó, những người có tấm lòng ngèo khó là có phúc, vì Chúa có thể bước vào đó với sự mới mẻ mãi mãi của Người.

69. Sự nghèo khó tinh thần này liên quan mật thiết đến những gì Thánh Ignatiô Loyola gọi là “sự thờ ơ thánh thiện”, là điều mang lại cho chúng ta một tự do nội tâm kỳ diệu: “Để được như thế, chúng ta cần đào luyện mình cho có thái độ thờ ơ với tất cả các thụ tạo, với tất cả những gì mà ý chí tự do của chúng ta được phép chọn và không bị cấm; ngõ hầu về phần mỉnh, chúng ta không muốn có sức khoẻ tốt hơn là sức khoẻ xấu, giàu có hơn là nghèo khổ, danh dự hơn là mất danh dự, sống lâu hơn là sống ngắn, và như thế đối với tất cả những gì còn lại” [68].

70. Thánh Luca không nói về sự nghèo khó trong “tinh thần” mà chỉ đơn giản nói về những người “nghèo khó” (x. Lc 6:20). Bằng cách này, ngài cũng mời gọi chúng ta sống một cuộc đời giản dị và khắc khổ. Ngài kêu gọi chúng ta chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất, cuộc sống mà các Tông Đồ đã sống, và cuối cùng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng mặc dù giàu sang, nhưng “đã trở nên nghèo khó” (2 Cor 8:9).

Làm người nghèo trong tinh thần: đó là sự thánh thiện.

“Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được đất làm gia nghiệp”

71. Đây là một diễn tả mạnh mẽ trong một thế giới mà ngay từ đầu đã là nơi xung đột, tranh chấp và thù hận ở tất cả mọi bên, nơi mà chúng ta thường xuyên xếp loại người khác dựa trên ý tưởng và phong tục của họ, và ngay cả trên cách nói chuyện hoặc trang phục của họ. Cuối cùng, đó là triều đại của kiêu hãnh và hư danh, nơi mà mỗi người nghĩ rằng họ có quyền thống trị người khác. Tuy nhiên, dù có vẻ như không thể nào có thể được, Chúa Giêsu đề nghị một cách làm việc khác: cách hiền lành. Đó là điều chúng ta thấy Người làm với các môn đệ của Người. Đó là điều mà chúng ta chiêm niệm khi Người vào Giêrusalem: “Này, vua các ngươi đang đến với các ngươi, khiêm tốn, và ngồi trên lưng lừa” (Mt 21: 5, x. De 9: 9).

72. Đức Kitô nói: “Hãy học cùng Thầy; vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và các con sẽ tìm được sự nghỉ ngơi cho linh hồn mình” (Mt 11:29). Nếu chúng ta luôn bực tức và mất kiên nhẫn với người khác, chúng ta sẽ mệt mỏi và kiệt sức. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào những lỗi lầm và giới hạn của người khác với sự dịu dàng và hiền lành, không có vẻ hơn người, chúng ta mình trong việc phàn nàn vô ích. Thánh Têrêxa thành Lisieux nói với chúng ta rằng “Đức ái hoàn hảo hệ tại việc nâng đỡ các sai lầm của người khác, và không ngạc nhiên vì các yếu đuối của họ” [69].

73. Thánh Phaolô nói về sự hiền lành như một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gal 5:23). Ngài đề nghị rằng, nếu một hành vi sai trái của một trong những anh chị em của chúng ta làm chúng ta bận tâm, thì chúng ta nên cố gắng sửa sai họ, nhưng “với một tinh thần hiền lành”, vì “anh chị em cũng có thể bị cám dỗ” (Ga 6: 1). Ngay cả khi chúng ta bảo vệ đức tin và các xác tín của mình, chúng ta phải làm thế với “sự hiền lành” (x. 1 Phêrô 3:16). Các kẻ thù của chúng ta cũng phải được đối xử với “sự hiền lành” (2 Tim 2:25). Trong Hội Thánh , chúng ta thường sai lầm vì không chịu chấp nhận đòi hỏi của Lời Chúa.

74. Sự hiền lành là một cách diễn tả khác của tinh thần nghèo khó nội tâm của những người tin cậy vào một mình Thiên Chúa. Quả thực, trong Thánh Kinh người ta thường dùng một từ - anawim – để ám chỉ người nghèo và người hiền lành. Một số người có thể phản đối: “Nếu tôi quá hiền lành, người ta sẽ nghĩ là tôi ngốc, tôi khùng hay nhu nhược”. Trường hợp đó có thể xảy ra, nhưng hãy để mặc kẻ khác nghĩ như thế. Tốt hơn là luôn luôn hiền lành, bởi vì sau đó những ước muốn sâu xa của tôi sẽ được thành tựu. Người hiền lành “sẽ được đất làm gia nghiệp”, vì họ sẽ thấy những lời hứa của Thiên Chúa được hoàn thành trong cuộc đời họ. Trong mọi hoàn cảnh, người hiền lành đặt niềm hy vọng vào Chúa, và những ai hy vọng vào Người sẽ được đất ... và tận hưởng sự bình an trọn vẹn (x. TV 37: 9,11). Còn Chúa thì tin tưởng vào họ: “Đây là kẻ sẽ được Ta đoái nhìn: kẻ khiêm nhường và có tinh thần thống hối, kẻ nghe lời Ta mà run sợ “ (Is 66: 2). 

Phản ứng với lòng hiền lành và khiêm nhường: đó là sự thánh thiện.

“Phúc cho những ai khóc lóc, vì họ sẽ được an ủi”

75. Thế gian đề nghị chúng ta điều ngược lại: giải trí, vui chơi, tiêu khiển và bảo chúng ta rằng đó là những điều làm cho cuộc sống được tốt đẹp. Người thuộc về thế gian lờ đi, nhìn đi chỗ khác khi có những vấn đề đau ốm hay buồn phiền trong gia đình hoặc chung quanh. Thế gian không muốn khóc lóc; họ muốn lờ đi các tình cảnh đau đớn, che phủ chúng hoặc che giấu chúng. Người ta tốn nhiều năng lượng để chạy trốn những tình trạng đau khổ với niềm tin rằng thực tại có thể được che giấu. Nhưng thập giá không bao giờ có thể vắng mặt.

76. Một người nhìn mọi sự trong thực trạng của chúng và để cho sự đau khổ và than khóc thấm nhập vào con tim, có thể chạm đến những gì sâu thẳm nhất của cuộc đời và tìm được hạnh phúc thực sự [70]. Người ấy được an ủi, không phải bởi thế gian mà bởi Chúa Giêsu. Những người như thế có can đảm chia sẻ nỗi khổ của người khác và không còn chạy trốn những hoàn cảnh đau đớn. Họ khám phá ra rằng cuộc đời có ý nghĩa khi giúp đỡ những người trong cơn đau đớn của họ, hiểu được nỗi thống khổ của người khác khi cứu giúp tha nhân. Họ cảm nhận rằng người khác là xác thịt của mình, và không sợ lại gần, thậm chí chạm vào các vết thương của họ. Họ thấy cảm thương cho người khác đến nỗi mọi khoảng cách đều biến mất. Bằng cách này họ có thể chấp nhận lời khuyên của Thánh Phaolô: “Hãy khóc với những kẻ khóc” (Rom 12:15).

Biết làm sao để than khóc với người khác: đó là sự thánh thiện.

“Phúc cho những ai đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no thoả”

77. Đói và khát là những kinh nghiệm mãnh liệt, vì chúng liên quan đến các nhu cầu cơ bản và bản năng sống còn của chúng ta. Có những người ao ước công lý và khao khát sự công chính với cường độ tương tự như thế. Chúa Giêsu nói rằng họ sẽ được no thoả, vì sớm hay muộn, công lý sẽ đến. Chúng ta có thể hợp tác để làm cho điều ấy có thể xảy ra, ngay cả khi chúng ta không luôn nhìn thấy những kết quả của các nỗ lực của mình.

78. Chúa Giêsu đưa ra một công lý khác với công lý của thế gian, thường bị hư hỏng bởi những quyền lợi nhỏ nhen và bị thao túng bằng nhiều cách khác nhau. Kinh nghiệm cho thấy làm sao nó dễ dàng bị sa lầy trong tham nhũng, bị vướng mắc trong chính trị thường nhật của việc có đi có lại (quid pro quo), ở đó mọi sự trở thành kinh doanh. Có bao nhiêu người chịu đựng bất công, bất lực đứng im trong khi những người khác chia nhau những điều tốt đẹp của cuộc đời này. Một số từ bỏ cuộc chiến đấu cho công lý chân chính và lựa chọn đi theo trong con tàu của kẻ chiến thắng. Điều này không liên quan gì đến sự đói khát công lý mà Chúa Giêsu ca tụng.

79. Công lý thực sự xảy ra trong đời sống của dân chúng khi chính họ công bình trong các quyết định của họ; nó được diễn tả trong việc theo đuổi công lý cho những người nghèo và người cô thế. Trong khi đúng là từ “công lý” có thể là một từ đồng nghĩa với việc trung thành với Thánh Ý của Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta, nhưng nếu chúng ta gán cho từ này một ý nghĩa quá tổng quát, thì chúng ta quên rằng nó được chứng tỏ cách đặc biệt trong công lý đối với những người dễ bị tổn thương nhất: “Hãy tìm kiếm công lý, hãy sửa phạt kẻ đàn áp; hãy bảo vệ côi nhi, hãy bênh vực quả phụ” (Is 1:17).

Khát khao sự công chính: đó là sự thánh thiện.

“Phúc cho những ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được thương xót”

80. Thương xót có hai khía cạnh. Nó bao gồm việc ban tặng (cho), giúp đỡ và phục vụ người khác, nhưng nó cũng bao gồm sự tha thứ và hiểu biết. Thánh Matthêu tóm lược nó trong một luật vàng: “Trong mọi sự, hãy làm cho người khác như các con muốn họ làm cho các con” (7:12). Sách Giáo Lý nhắc nhở chúng ta rằng luật này được áp dụng “trong mọi trường hợp”, [71], đặc biệt là khi chúng ta “đối diện với những hoàn cảnh làm cho các phán đoán về luân lý không được chắc chắn và khó quyết định” [72].

81. Cho và tha thứ có nghĩa là tái tạo trong cuộc sống của chúng ta một số lượng nho nhỏ sự hoàn thiện của Thiên Chúa, là Đấng cho và tha thứ quá nhiều. Vì lý do này, trong Tin Mừng Thánh Luca, chúng ta không nghe những lời “Hãy nên hoàn thiện” (Mt 5:48), nhưng thay vào đó, “Hãy có lòng thương xót, như Cha các con là Ðấng hay thương xót. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ không bị xét đoán. Ðừng kết án ai, thì các con sẽ không bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì các con sẽ được cho lại” (6: 36-38). Thánh Luca sau đó thêm một điều mà chúng ta không được bỏ qua: “Vì các con lấy đấu nào mà đong, thì sẽ được đong lại bằng đấu đó” (6:38). Tiêu chuẩn mà chúng ta sử dụng để hiểu và tha thứ cho người khác sẽ đo lường sự tha thứ mà chúng ta nhận được. Các tiêu chuẩn chúng ta sử dụng để cho đi sẽ đo lường những gì chúng ta nhận được. Chúng ta không bao giờ được quên điều này.

82. Chúa Giêsu không nói, “Phúc cho những kẻ tìm cách báo thù”. Người gọi những người tha thứ và làm như vậy “bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22) là những người “được chúc phúc”. Chúng ta cần nghĩ về chính mình như một quân đội của những người được tha thứ. Tất cả chúng ta đã được đoái nhìn với lòng từ bi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta chân thành đến gần Chúa và cẩn thận lắng nghe, có thể có những lúc chúng ta nghe được lời quở trách của Người: “Vậy ngươi không phải thương xót đồng bạn ngươi, như Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18:33).

Thấy và hành động với lòng thương xót: đó là sự thánh thiện.

“Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được thấy mặt Thiên Chúa”

83. Mối Phúc này nói về những người có tâm hồn đơn sơ, thanh sạch và không ô uế, vì một trái tim có khả năng yêu thương không thu vào những gì có thể làm hại, làm suy yếu hoặc gây nguy hiểm cho tình yêu ấy. Thánh Kinh sử dụng trái tim để mô tả những ý định thật sự của chúng ta, những điều chúng ta thật sự tìm kiếm và mong muốn, ở ngoài tất cả những vẻ bề ngoài. “Loài người nhìn vẻ bề ngoài, còn Đức Chúa thì nhìn thấu tận đáy lòng” (1Sam 16:7). Thiên Chúa muốn nói với con tim của chúng ta (x. Hos 2:16); ở đó Ngài muốn ghi Lể Luật của Ngài (x. Ger 31:33). Nói cách khác, Ngài muốn cho chúng ta một quả tim mới (x. Ed 26:26).

84. “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ” (Cn 4:23). Không có gì bị nhơ bẩn bởi sự giả dối mà có giá trị thật sự trong mắt Chúa. Người “tránh thói lọc lừa, rời xa những tư tưởng ngu dốt” (Kn 1: 5). Chúa Cha, “Đấng thấu suốt những gì kín đáo” (Mt 6: 6), nhận ra điều gì thiếu tinh khiết và không chân thành, mà chỉ trình diễn hay có vẻ bề ngoài, cũng như Chúa Con, Đấng biết “điều gì trong lòng người” (x. Ga 2,25).

85. Chắc chắn không thể có tình yêu mà không có những việc làm yêu thương, nhưng Mối Phúc này nhắc nhở chúng ta rằng Chúa mong đợi một cam kết dấn thân cho anh chị em mình đến từ con tim. Vì “Nếu tôi có đem hết tất cả những gì tôi có mà cho đi, và nếu tôi hiến thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì tôi cũng chẳng được gì” (1 Cor 13: 3). Cũng trong Tin Mừng Thánh Matthêu, chúng ta thấy rằng những gì phát xuất từ con tim là điều làm một người ra ô uế (x. 15:18), vì từ con tim phát ra những ý định giết người, trộm cắp, làm chứng dối, và những việc làm gian ác khác (x. 15:19). Từ những ý định của con tim phát sinh những ham muốn và những quyết định sâu xa nhất xác định các hành động của chúng ta.

86. Một con tim yêu mến Thiên Chúa và tha nhân (x. Mt 22:36-40) thật sự, chứ không chỉ đơn thuần bằng lời nói, là một con tim trong sạch; nó có thể thấy Thiên Chúa. Trong thánh thi Đức Ái của ngài, Thánh Phaolô nói rằng “bây giờ chúng ta nhìn thấy lờ mờ như trong một tấm gương” (1 Cor 13:12), nhưng tùy theo mức độ thắng thế của chân lý và tình yêu, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy “mặt đối mặt”. Chúa Giêsu hứa rằng những ai có lòng trong sạch “sẽ thấy Thiên Chúa”.

Giữ một quả tim khỏi tất cả những gì làm lu mờ tình yêu: đó là sự thánh thiện.

“Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”

87. Mối Phúc này khiến chúng ta suy nghĩ về quá nhiều hoàn cảnh chiến tranh không ngừng trong thế giới của mình. Tuy nhiên, chính chúng ta thường là nguyên nhân của xung đột hoặc ít ra là hiểu lầm. Thí dụ, tôi có thể nghe được một điều gì về một người nào đó và tôi đi ra ngoài kể lại cho người khác. Tôi thậm chí còn có thể thêm mắm thêm muối cho nó ở vòng thứ hai và tiếp tục loan truyền nó ... Và nó càng gây thêm tai hại, thì tôi có vẻ càng hài lòng về nó. Thế giới của những tin đồn, bị những người tiêu cực và phá hoại chiếm đóng, không mang lại hòa bình. Những kẻ như vậy thực sự là kẻ thù của hòa bình; họ không có cách nào “được chúc phúc” [73].

88. Những người kiến tạo hòa bình thực sự “tạo ra” hòa bình; họ xây dựng hòa bình và tình bằng hữu trong xã hội. Đối với những người gieo vãi hòa bình, Chúa Giêsu đã hứa lời hứa tuyệt vời này: “Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9). Người bảo các môn đệ rằng, bất cứ nơi nào họ đến, họ sẽ nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10: 5). Lời Chúa khuyến khích mọi tín hữu làm việc cho hoà bình “cùng với tất cả những ai cầu khẩn Chúa bằng tấm lòng trong sạch” (2 Tim 2:22), “vì hoa quả của sự công chính được gieo trong hòa bình cho những ai kiến tạo hòa bình” (Gc 3:18). Và nếu có nhiều lần trong cộng đồng chúng ta khi chúng ta hỏi phải làm gì, “chúng ta hãy theo đuổi điều gì đem lại hòa bình” (Rom 14:19), vì sự hiệp nhất đáng ưa chuộng hơn sư xung đột [74].

89. Không dễ dàng để “tạo ra” thứ hòa bình theo Tin Mừng này, là hoà bình không loại trừ ai, nhưng bao gồm cả những người hơi kỳ cục, phiền toái hoặc khó chịu, đòi hỏi, lập dị, bị dầm vập bởi cuộc sống hoặc đơn thuần vô tư. Đó là công việc khó khăn; nó kêu gọi sự cởi mở lớn lao của trí khôn và tâm hồn, bởi vì nó không phải là việc tạo ra “thoả ước trên giấy tờ hay hòa bình tạm thời cho một thiểu số được hài lòng” [75], hoặc một dự án “bởi một ít người cho một ít người” [76]. Nó cũng không cố gắng lờ đi hoặc coi thường mâu thuẫn; trái lại, nó phải “đối diện trực tiếp với xung đột, giải quyết nó và làm cho nó thành một mắt xích trong chuỗi của một tiến trình mới” [77]. Chúng ta cần phải là những người xây dựng hòa bình, vì xây dựng hoà bình là một nghề đòi hỏi sự bình thản, sáng tạo, nhạy cảm và kỹ năng. (còn tiếp)

770    16-04-2018