Sidebar

Thứ Sáu
17.05.2024

Thư luân lưu của Bộ Giáo sĩ về căn tính Truyền giáo của Linh mục

Mở Đầu
Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est

"Giáo hội lữ hành trên trần thế tự bản chất là truyền giáo, theo chương trình của Thiên Chúa Cha, và xuất phát từ sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần" [1]

Công đồng chung Vaticanô II, trong Thánh Truyền không gián đọan của Giáo Hội, đã minh xác bản tính truyền giáo nội tại của Giáo Hội. Giáo Hội không hiện hữu tự mình hay cho mình: nó phát nguyên từ sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tự bản tính, Giáo hội được kêu gọi đi ra khỏi chính mình, hướng về thế giới, trở nến dấu chứng của đấng Emmanuel, Ngôi Lời mặc xác phàm, Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta.


Bản tính truyền giáo, theo quan điểm thần học, được nhận thấy trong mọi đặc điểm của Giáo Hội, một cách đặc biệt trong cả hai đặc tính công giáo và tông truyền. Làm thế nào chu toàn cách trung thành bổn phận làm tông đồ, là những chứng nhân trung thành của Chúa, những người loan báo Lời Chúa, những thừa tác viên khiêm tốn và xác quyết của ân sủng, nếu không qua sứ vụ truyền giáo, hiểu được thế nào là yếu tố kiến tạo đích thực và riêng biệt của Giáo Hội?


Hơn nữa, sứ vụ truyền giáo của Giáo hội là sứ vụ được lãnh nhận từ Chúa Giêsu Kitô với ân huệ của Chúa Thánh Thần. Sứ vụ này là duy nhất, và được trao phó cho mọi thành phần Dân Chúa, được thông phần vào chức linh mục của Chúa Kitô nhờ các bí tích khai tâm, để dâng lên Chúa của lễ thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô cho nhân loại. Sứ vụ này mở rộng cho mọi người, mọi văn hoá, mọi nơi và mọi lúc. Sứ vụ duy nhất này tương ứng với chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô, trong đó mọi thành phần Dân Chúa đều thông phần, trong cách thế khác nhau không chỉ do cấp bậc khác nhau. 


Trong sứ vụ truyền giáo này, các linh mục là những cộng tác viên quý trọng nhất của các Giám mục, những người kế vị các Tông đồ, chắc chắn sẽ giữ nhiệm vụ trung tâm và tuyệt đối không thể thay thế được, mà sự quan phòng của Chúa ủy thác cho họ. 


1. Giáo hội ý thức về nhu cầu cần có sự dấn thân được đổi mới cho công việc truyền giáo
 

Bản tính truyền giáo nội tại của Giáo Hội được thiết lập cách năng động từ chính sứ vụ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Giáo Hội được kêu gọi, tự bản tính, để loan truyền con người của Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, và nói với toàn thể nhân loại theo như lệnh truyền của Chúa: "Hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tao vật" (Mc 16, 15); "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" (Gn 20, 21). Trong chính ơn gọi của Phaolô cũng là một lời sai đi: "Hãy đi, vì Ta sai ngươi đi xa, đến với các dân ngoại" (Cv 22, 21).


Để thực hiện sứ vụ này, Giáo Hội đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, được Chúa Cha và Chúa Con gửi đến trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thần Khí ngự xuống trên các tông đồ là Thần Khí của Chúa Giêsu: làm cho hành động của Chúa Giêsu được lập lại (xem Cv 4, 10), làm cho Lời Chúa được rao truyền (Cv 4, 30), làm cho lời nguyện của Chúa Giêsu được lập lại (xem Cv 7, 59 tt; 34, 6), làm cho tưởng nhớ muôn đời, qua việc bẻ bánh, việc tạ ơn và hy lễ của Chúa Giêsu và gìn giữ sự hiệp nhất giữa anh em (Cv 2, 42; 4, 32). Chúa Thánh Thần chứng thực và tỏ bày sự hiệp thông của các tông đồ như một cuộc tạo dựng mới, công đoàn của ơn cứu rỗi cánh chung, và ngài sai họ đi thi hành sứ vụ: "Các con sẽ là những chứng nhân của thầy...cho thế gian" (Cv 1, 8). Chúa Thánh Thần thôi thúc Giáo hội mới phát sinh dấn thân vào sứ vụ truyền giáo khắp giới thế giới, và như thế tỏ ra rằng Ngài lan toả trên "mọi xác phàm" (xem Cv 2, 17).


Hiện nay, trước những điều kiện toàn cầu mới của sự hiện diện và những hoạt động của Giáo Hội, đòi hỏi sự đổi mới sự cấp bách cho việc truyền giáo của Giáo Hội, không chỉ là việc truyền giáo cho dân ngoại (ad gentes), nhưng còn trong chính những đoàn chiên đã được thiết lập trong Giáo Hội.


Trong những thập niên gần đây, Huấn Quyền của toà thánh Phêrô đã luôn nói lên cách xác quyết và mạnh mẽ về nhu cầu cần có sự dấn thân mới cho công cuộc truyền giáo. Chúng ta cũng nên nhắc lại ở đây các tài liệu Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) của Đức Phao lô VI, Sứ vụ của Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio) và Thiên niên kỷ mới đang đến (Novo Millenio ineunte) của Đức Gioan Phaolô,[2] và rất nhiều phát biểu của Đức Bênêđíctô XVI [3].


Đức Bênêđictô cũng không ít quan tâm đến những hoạt động truyền giáo cho dân ngoại (ad gentes), được biểu lộ qua việc ngài luôn lo lắng về vấn đề này. Cần nhấn mạnh và khích lệ sự hiện diện và hoạt động của rất nhiều nhà thừa sai đã được sai đến với các dân tộc, cũng như hoạt động của họ hiện nay. Dĩ nhiên là con số của họ vẫn chưa đủ. Chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng mới: các thừa sai Phi Châu và Á Châu đang giúp cho Giáo hội, ví dụ tại Âu Châu. 


Cũng phải tạ ơn Chúa nữa vì nhiều phong trào hay các cộng đoàn Giáo Hội, cả của giáo dân, đã biểu lộ nhiệt tâm truyền giáo, - cả giữa những người Công Giáo vì nhiều lý do không còn sống động trong cộng đoàn Giáo Hội-, cũng như cho các dân (ad gentes).


2. Khía cạnh thần học và tu đức của tinh thần truyền giáo của chức linh mục
 

Chúng ta không thể quan tâm về khía cạnh truyền giáo của thần học và tu đức của chức linh mục mà không xác định mối liên kết của nó với mầu nhiệm của chính Chúa Kitô. Như đã nhắc đến trong số 1, Giáo hội đặt nền tảng trên sứ vụ của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần: do đó mọi 'sứ vụ', cũng như chiều kích truyền giáo của Giáo Hội, nội tại tự bản tính, đặt nền tảng trên việc thông chia với sứ vụ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tự căn là đấng được Thiên Chúa Cha sai đến. Toàn bộ Tân Ước chứng minh điều này.


Trong Tin Mừng theo thánh Luca, Chúa Giêsu đã giới thiệu về mình như Đấng được thánh hoá bởi Chúa Thánh Thần và được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó (x. Lc 4, 18; Is 61,b 1-2). Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa xác định mình là con yêu dấu, người mà trong dụ ngôn những tá điền sát nhân của vườn nho, được chủ vườn sai đến sau khi đã sai một số đầy tớ đến trước (x. Mc 12, 1-2; Mt 21, 33-46; Lc 20, 9-19). Lúc khác Ngài nói về mình như là người được sai đến (x. Mt 15, 24). Ý tưởng Chúa Giêsu như là Đấng được Chúa Cha sai đến cũng được nói đến trong các thư của thánh Phaolô (x. Gal 4, 4; Rm 8, 3).


Nhưng "sứ vụ" của Chúa Giêsu được nói đến rõ ràng nhất là trong những trước tác của Gioan [4] . Người "được Chúa Cha sai đến" là một phần của căn tính Đấng Kitô, Ngài là Đấng được Chúa Cha thánh hiến và sai đến trần gian, sự việc này đã nói lên địa vị làm con thần thiêng duy nhất của Ngài (x. Ga 10; 36-38). Chúa Giêsu hoàn tất công trình cứu chuộc như người được Chúa Cha sai đến, khi Ngài thi hành công việc của Đấng sai Ngài đến, và vâng phục ý muốn của Cha. Qua việc thi hành ý muốn này Chúa Giêsu đã thi hành thừa tác vụ của Ngài là tư tế, là tiên tri và là vua. Cùng lúc Đấng được Chúa Cha sai đến đã sai các môn đệ đi. Sứ vụ truyền giáo, trong mọi khía cạnh của nó, đều có nền tảng trong sứ vụ của Chúa Con ở trần gian, và trong sứ vụ của Chúa Thánh Thần[5] .


Chúa Giêsu, Đấng được sai đến, đến lượt Ngài sai đi (x. Ga 17, 18). Sứ vụ thừa sai, trên hết và trước hết, là chiều kích của đời sống và thừa tác vụ của Chúa Giêsu, vì thế cũng là của Giáo hội và của mỗi tín hữu theo đòi hỏi của ơn gọi riêng mỗi người. Chúng ta thấy Ngài đã thực thi thừa tác vụ cứu rỗi, vì lợi ích con người, trong ba chiều kích được liên kết chặt chẽ với nhau: dạy dỗ, thánh hoá, và cai trị, hay nói bằng những hạn từ khác liên quan trực tiếp hơn đến Kinh Thánh: ngôn sứ hay người mạc khải về Thiên Chúa Cha, tư tế, và là Chúa, vua, mục tử. 


Quả thực là trong lời loan báo về Nước Thiên chúa và trong vai trò người mạc khải về Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu nhận thức một cách đặc biệt mình là người được sai đến cho dân Israel (x. Mt 15, 24; 10, 5). Nhưng trong những thời điểm khác nhau trong cuộc sống, Ngài đã mở ra chân trời phổ quát của sứ điệp của Ngài: Chúa Giêsu không loại dân ngoại ra khỏi ơn cứu rỗi, Ngài ca ngợi lòng tin của một số người trong họ, ví dụ như viên quan Bách quản, và loan báo rằng dân ngoại đến từ khắp nơi trên thế giới để đồng bàn với các tổ phụ của dân Israel (x. Mt 8, 10-12; Lc 7, 9); Ngài cũng nói những điều tương tự với người phụ nữ xứ Canaan "Này bà, lòng tin của bà thật lớn lao, điều bà muốn sẽ được thực hiện" (Mt 15, 28; x. Mc 7, 29). Để tiếp tục chính sứ vụ của mình, Chúa Giêsu phục sinh đã sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng cho mọi dân tộc, một sứ vụ phổ quát (x. Ga 20, 21-22; Mt 28, 19-20; Mc 16, 15; Cv 1, 8). Mạc khải Kitô giáo được đến với mọi người, không phân biệt. 


Mạc khải về Thiên Chúa Cha mà Chúa Giêsu tỏ bày dựa trên nền tảng của mối tiếp thông duy nhất của Ngài với Thiên Chúa Cha, với ý thức của người con; chỉ xuất phát từ điều này Ngài mới có thể thi hành chức năng là Đấng mạc khải (x. Mt 11, 12-27; Lc 10, 21-22; Ga 1, 18; 14, 6-9; 17, 3.4.6.). Mục tiêu tối thượng của toàn bộ lời giảng dạy của Chúa Giêsu là làm cho Chúa Cha được nhận biết, với tất cả những hiểu biết có thể được. Sứ vụ của Ngài như Đấng mạc khải về Thiên Chúa Cha bắt nguồn từ mầu nhiệm của chính ngôi vị Ngài và Ngài tiếp tục mạc khải Thiên Chúa Cha đến muôn đời: "Con tỏ cho họ biết danh Cha, Con tỏ cho họ biết để tình yêu Cha yêu con ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa" (Ga 17, 26; x. 17, 24). Cảm nghiệm này về tình phụ tử phải thúc bách các môn đệ yêu thương mọi người, và sự hoàn thiện của họ hệ tại ở điều này (x. Mt 5, 5-48; Lc 6, 35-36).


Không thể hiểu được thừa tác vụ tư tế của Chúa Giêsu nếu không ở trong cái nhìn của phổ quát tính. Các bản văn Tân Uớc đã chứng minh về việc Chúa Giêsu ý thức rõ ràng về sứ vụ của mình và sứ vụ đó đưa Ngài đến việc tự hiến chính mình cho mọi người (x. Mc 10, 45; Mt 20, 28). Chúa Giêsu, Đấng không có tội, đã đến giữa tội nhân và tự hiến mình cho Thiên Chúa Cha vì họ. Những lời thiết lập Bí Tích Thánh Thể phản ảnh cũng chính ý thức và thái độ đó: Chúa Giêsu dâng hiến chính mình trong hy tế của Giao Ước Mới vì lợi ích của chúng ta: "Đây là máu giao ước mới, đổ ra cho nhiều người" (Mc 14, 24; x. Mt 26, 28; Lc 22, 20; 1 Cr 11, 24-25).


Chức tư tế của Chúa Giêsu được khai triển rõ ràng hơn trong Thư gửi tín hữu Do Thái, trong đó nhấn mạnh Ngài là tư tế muôn đời, Đấng sở hữu chức tư tế không bao giờ qua đi (x. Dt 7, 24), là tư tế hoàn hảo (x. Dt 7, 28). Đối lại với số đông các tư tế và các hy tế xưa kia, Chúa Giêsu dâng hiến chính mình chỉ một lần cho tất cả với hy tế toàn hảo (Dt 7, 27; 9, 12.28; 10, 10; 1 Pr 3, 18). Tính duy nhất của con người và hy tế của Ngài tạo nên tính cách duy nhất và phổ quát của chức linh mục của Chúa Kitô; toàn bộ thực tại của con người và cụ thể là hy tế cứu chuộc mang một giá trị muôn đời, mang dấu ấn không bao giờ mất đi và không thể vượt qua. Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm và muôn đời của chúng ta, hiện vẫn tiếp tục, trong tình trạng vinh quang của Ngài, cầu bàu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha (x. Ga 14, 16; Rm 8, 32; Dt 7, 25; 9, 24; 10, 12; 1 Ga 2, 1).


Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến, cũng xuất hiện như là Chúa trong Tân Ước (x. Cv 2, 36). Biến cố Phục sinh làm cho các tín hữu nhận ra địa vị làm Chúa của Chúa Kitô. Trong những kinh tuyên tín đầu tiên luôn xuất hiện tước vị nền tảng này trong mối liên hệ với việc phục sinh (x. Rm 10, 9). Cũng có nhiều bản văn nói về Chúa Giêsu như là Đức Chúa và quy chiếu về Thiên Chúa Cha (x. Pl 2, 11). Mặt khác, Chúa Giêsu, Đấng loan báo về Nước Thiên Chúa, với mối liên kết đặc biệt với con người Ngài, là vua, như Ngài đã chỉ cho thấy trong Tin Mừng Gioan (x. Ga 18, 33-37). Và tận cùng thời gian "Ngài sẽ trao lại vương quốc cho Thiên Chúa Cha, sau khi đã triệt tiêu mọi Thế lực, Quyền năng và Sức mạnh" (1 Cr 15, 24).


Hiển nhiên là sự thống trị của Chúa Giêsu, không liên quan đến các thế lực trên thế gian này (x. Lc 22, 25-27; Mt 20, 25-27; Mc 10, 42-¬45) vì như Ngài đã nói nước của Ngài không ở trần gian (x. Ga 18, 36). Vì thế sự thống trị của Chúa Kitô là sự thống trị của người Mục Tử Nhân Lành, Đấng biết hết mọi con chiên, Đấng hiến mạng sống vì chúng và muốn hợp nhất chúng lại thành một đàn chiên duy nhất (x. Ga 10, 14-16). Dụ ngôn con chiên lạc cũng nói lên một cách gián tiếp về Đức Kitô như người mục tử nhân lành (x. Mt 18, 12-14; Lc 15, 4-7). Chúa Giêsu còn là "Mục tử tối cao" (1 Pr 5, 4).


Trong Chúa Giêsu chúng ta nhận ra cách rõ ràng Ngài đã thực hiện những gì truyền thống Cựu Ước đã nói về Chúa như mục tử của dân Israel "Ta nuôi chúng bằng cỏ tốt tươi, đồng cỏ của chúng trên những đỉnh núi của Israel [...]. Chính ta là mục tử của đoàn chiên ta, ta cho chúng nằm nghỉ, lời Thiên Chúa phán. Ta sẽ tìm kiếm những con chiên lạc, sẽ mang về những con đi hoang, ta sẽ băng bó những con bị thương tật, và làm cho mạnh mẽ những con yếu đưối, còn những con béo tốt và khoẻ mạnh ta sẽ chăm sóc. Ta sẽ nuôi chúng bằng sự công chính' (Ed 34, 14-16). "Và ta sẽ lập cho chúng một mục tử, là Đavid tôi tớ ta, người sẽ nuôi dưỡng chúng và là mục tử của chúng. Và ta, Đức Chúa, sẽ là Chúa của chúng (Ed 34, 23-24; x. Gr 23, 1-4; Dcr 11, 15-17; Tv 23, 1-6)[6] . 


Chỉ phát khởi từ Chúa Kitô thì những suy tư truyền thống về ba chức năng (tria munera), định dạng thừa tác vụ thánh của các linh mục, mới có ý nghĩa. Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu nhắc nhớ Ngài hiện diện nơi những người Ngài sai đi: "Ai đón nhận người mà ta sai đến là đón nhận chính ta; ai đón nhận ta là đón nhận Đấng đã sai ta" (Ga 13, 20; x. Mt 10, 40; Lc 10, 16). Vì vậy, có một chuỗi "những sứ vụ", có nguồn gốc từ mầu nhiệm từ Chúa Ba Ngôi, Đấng muốn tất cả con người được thông phần vào đời sống của Ngài. Nguồn gốc từ mầu nhiệm Ba Ngôi, Kitô học[7] , và Giáo hội học của thừa tác vụ linh mục là nền tảng của căn tính truyền giáo. Ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, tính độc nhất và thiết yếu của việc trung gian của Chúa Kitô (x. Tm 2, 4-7; 4, 10) không cho phép đưa ra những giới hạn cho công cuộc phúc âm hoá và thánh hoá Giáo Hội. Tất cả công trình cứu chuộc phát xuất từ chương trình của Thiên Chúa Cha để thâu họp vạn vật trong Chúa Kitô (x. Ep 1, 3-10) và trong việc thực hiện chương trình này, là chương trình sẽ được hoàn tất khi Chúa trở lại trong vinh quang.


Công đồng Vaticanô II phác hoạ cách rõ ràng việc thực thi ba chức năng của Chúa Kitô của các linh mục, như là các cộng tác viên của chức giám mục: "Những người thông phần vào nhiệm vụ của Chúa Kitô Đấng Trung Gian duy nhất (x. 1 Tm 2, 5) trong mức độ thừa tác của mình, họ loan báo lời Chúa cho mọi người. Họ thực hành chức vụ thánh, đặc biệt trong việc tôn thờ Thánh Thể hay cử hành Thánh Lễ qua đó, trong khi thi hành trong chính con người Chúa Kitô và loan báo mầu nhiệm của người, họ kết hiệp kinh nguyện của các tín hữu với hy tế của thủ lãnh của họ, và trong hy tế của Thánh lễ họ làm cho hiện thực và áp dụng cho tới khi Chúa đến (x. 1 Cr 11, 26) hy tế duy nhất của Tân Ước, chính là Chúa Kitô, Đấng một lần cho tất cả dâng mình cho Thiên Chúa Cha như tế vật không tì vết (x. Dt 9, 11-28). Trong khi thi hành trong thẩm quyền của mình chức vụ của Chúa Kitô mục tử và thủ lãnh, họ quy tụ gia đình của Chúa, trong đó quy tụ các anh em cùng đồng tâm hợp ý, nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần đưa họ đến cùng Chúa Cha. Giữa đoàn chiên họ thờ phượng Ngài trong tinh thần và trong chân lý (x. Gn 4, 24)[8] .


Nhờ bí tích truyền chức ban cho một ấn tích thiêng liêng không thể xoá nhoà[9] , các linh mục được thánh hiến, tức là cất "khỏi thế gian" để dâng cho "Thiên Chúa hằng sống", "như là vật sở hữu của Ngài, để từ Ngài họ có thể thi hành thừa tác vụ tư tế cho thế gian", để rao giảng Tin Mừng, để làm mục tử các tín hữu và cử hành việc phụng tự Thiên Chúa như những tư tế đích thực của Tân Ước (x. Dt 5, 1)[10] .


Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI, trong bài huấn dụ cho các tham dự viên Đại Hội của Bộ Giáo Sĩ, đã xác quyết rằng: "chiều kích truyền giáo của chức linh mục phát sinh do việc biến đổi của họ qua bí tích với Chúa Kitô là Thủ Lãnh: hệ quả là nó mang đến sự gắn bó tận tâm tận tình với điều mà truyền thống Giáo Hội xác định như lối sống của các tông đồ (apostolica vivendi forma). Điều này hệ tại ở việc tham dự vào một 'cuộc sống mới', nói một cách thiêng liêng, trong 'cách sống mới' đã được Chúa Kitô khai mở và đã được các tông đồ thực hiện. Qua việc đặt tay của Giám mục và lời nguyện thánh hiến của Giáo Hội, các ứng viên trở nên những con người mới, trở nên 'tư tế'. Trong ánh sáng này xuất hiện cách rõ ràng rằng ba chức năng (tria munera) trước tiên là ân huệ và chức vụ chỉ là hệ quả; trước hết là việc thông phần vào một cuộc sống và do đó thông phần vào một quyền năng (potestas)[11] . 


Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis về thừa tác vụ và đời sống linh mục đã minh họa sự thật này khi nói về các linh mục như những thừa tác viên của Lời Chúa, thừa tác viên của việc thánh hoá qua các bí tích và bí tích Thánh Thể, và là người hướng dẫn và người dạy dỗ cho dân Chúa. Căn tính truyền giáo của linh mục, dù không là chủ đề được khai triển trọn vẹn, nhưng cũng có mặt trong bản văn này. Bổn phận rao giảng Tin Mừng được nhấn mạnh, với quy chiếu rõ ràng về những người không tin, cũng như nhu cầu kêu mời đến đức tin và các bí tích qua việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng. Linh mục là người được 'sai đi', là người chia sẻ sứ vụ của Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha sai, là người nhận ra mình phải dấn thân vào động lực truyền giáo, không có nó họ không thể sống căn tính chân thực của mình[12] . 


Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Pastores Dabo Vobis nói rằng các linh mục, khi được đặt ở Giáo hội địa phương, nhờ việc truyền chức đã lãnh nhận ơn huệ thiêng liêng chuẩn bị họ cho những sứ vụ phổ quát, ngay cả đến tận cùng trái đất, vì "mỗi thừa tác viên linh mục chia sẻ tính chất phổ quát của sứ vụ được Chúa Giêsu ủy thác cho các tông đồ"[13] . Vì lý do đó, đời sống thiêng liêng của linh mục phải được xác định bằng sự phấn khích và năng động cho việc truyền giáo, lấy lại giáo huấn của công đồng Vaticanô II, Tông huấn làm sáng tỏ rằng linh mục phải hình thành cộng đồng được ủy thác cho họ để biến nó thành cộng đoàn truyền giáo đích thực[14] . Chức vụ mục tử đòi hỏi nhiệt tâm truyền giáo này phải hiển nhiên và được tiếp thông cho người khác, vì toàn thể Giáo hội tự bản chất là truyền giáo. Từ chiều kích này của Giáo hội xuất phát căn tính truyền giáo của linh mục trong một cách thế mang tính quyết định. 


Nói về sứ vụ truyền giáo, cần phải ghi nhớ rằng người được sai, trong trường hợp này là các linh mục, cần có mối liên hệ với người sai mình và với những người mình được sai đến. Nhìn về mối liên hệ của linh mục với Chúa Kitô, người đầu tiên được Chúa Cha sai đến, cần phải nhấn mạnh rằng, theo như các bản văn Tân Ước, chính Chúa Kitô Đấng sai đi và thiết lập các thừa tác viên cho Giáo Hội qua ân huệ của Chúa Thánh Thần tuôn đổ xuống qua việc truyền chức; không thể chỉ coi họ như người được chọn lựa hay ủy quyền của cộng đoàn hay của dân tư tế. Việc sai đi đến từ Chúa Kitô; các thừa tác viên của Giáo Hội là những dụng cụ sống động của Chúa Kitô Đấng Trung gian duy nhất[15] . "Linh mục tìm thấy sự thật viên mãn về căn tính của mình trong khi là một sự xuất phát (từ Chúa Kitô), một sự tham dự đặc thù trong (Chúa Kitô) và sự tiếp nối chính Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm và duy nhất của giao ước mới và muôn đời; họ là hình ảnh sống động và trong sáng của Chúa Kitô linh mục"[16] . 


Chiều kích truyền giáo của thừa tác vụ linh mục nổi bật với điểm xuất phát có tính chất Kitô học này: Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh và sống lại cho mọi người, những người Ngài muốn quy tụ lại trong một đàn chiên; Ngài đã chết để tụ họp lại tất cả con cái tản mát (x. Ga 11, 52). Nếu mọi người đều phải chết trong Ađam, trong Chúa Kitô mọi người sẽ được trở lại sự sống (x. 1 Cr 15, 20-22); trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đã giao hoà trần gian với Ngài (x. 2 Cr 5, 19); và đến lượt Ngài đã ra lệnh cho các tông đồ rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Toàn bộ Tân Ước tràn đầy ý niệm về hoạt động cứu rỗi phổ quát của Chúa Kitô và vai trò trung gian duy nhất của Ngài.


Linh mục, trở nên hình ảnh của Chúa Kitô như là tư tế, tiên tri và là vua, không thể không mở rộng tâm hồn cho mọi người, và cụ thể là trước hết cho những người chưa biết Chúa Kitô và chưa lãnh nhận ánh sáng của Tin Mừng.


Còn về những người mà Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng cho họ[17] và những người mà các linh mục được sai đến, cần phải nêu rõ rằng Công Đồng Vaticanô II lập đi lập lại về sự hợp nhất của gia đình nhân loại, dựa trên căn bản là mỗi người được tạo dựng trong hình ảnh và giống Thiên Chúa, và vận mệnh chung của chúng ta trong Chúa Kitô: "Cộng đồng các dân tộc là một, nguồn gốc của họ là một, vì Thiên Chúa tạo dựng cả nhân loại để sống trên khắp mặt đất. Mục tiêu tối hậu của họ cũng là một, là Thiên Chúa. Sự quan phòng, việc biểu lộ sự thiện hảo, và chương trình cứu độ của Ngài đến với mọi người nam cũng như nữ"[18] . Sự hiệp nhất này đạt tới sự viên mãn khi mọi sự được quy phục lại trong Đức Kitô (x. Ep 1, 10)[19] 


Mọi hoạt động mục vụ của Giáo hội đều được quy hướng về việc quy phục chung cuộc mọi sự trong Đức Kitô, là chính sự cứu rỗi cho nhân loại. Khi mọi người được kêu gọi hiệp nhất với Đức Kitô, linh mục, người được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, không được loại trừ bất cứ ai khỏi mối quan tâm của mình. Mọi người nam nữ đang chờ đợi, cho dù không ý thức (x. Cv 17, 23-29), ơn cứu độ đến từ chỉ mình Ngài mà thôi: ơn cứu độ này hệ tại ở việc chúng ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, và việc chúng ta chia sẻ địa vị làm con Thiên Chúa của Đức Kitô. Không có sự phân biệt giữa cá nhân hay các dân tộc, vì tất cả có cùng nguồn gốc và cùng chia sẻ một vận mệnh chung và một ơn gọi độc nhất trong Đức Kitô. Thiết lập những giới hạn cho "bác ái mục vụ" là hoàn toàn nghịch với ơn gọi của linh mục, được ghi dấu ấn bằng việc biến đổi đặc biệt theo Đức Kitô, là thủ lãnh và mục tử của Giáo Hội và của mọi người. 


Ba chức năng (tria munera) được linh mục thực thi trong thừa tác vụ của mình không thể được hiểu tách rời khỏi mối liên hệ thiết yếu của họ với con người Đức Kitô và ân huệ của Thần Khí. Linh mục được trở nên như Đức Kitô nhờ ân huệ của Chúa Thánh Thần lãnh nhận trong khi được truyền chức. Vì vậy, ba chức năng được liên kết về bản tính với Đức Kitô, nó không thể bị phân chia. Căn tính con thảo của Chúa Giêsu, được Chúa Cha sai đến, toả chiếu ánh sáng trên cả ba, và việc thực hành ba chức năng này không thể bị tách rời trong người linh mục[20] . 


Linh mục được định nghĩa qua mối liên hệ của họ với con người Đức Kitô chứ không chỉ qua việc thi hành chức năng linh mục, là điều phát xuất từ và có được ý nghĩa trọn vẹn trong cá nhân của Chúa. Điều này có nghĩa linh mục khám phá tính cách đặc biệt của đời sống và ơn gọi qua việc sống chính việc trở nên như Đức Kitô, họ luôn là một alter Christus (Chúa Kitô khác). Qua việc ý thức được Đức Kitô sai đi, cũng như Chúa Cha đã sai Đức Kitô, để lo cho việc cứu rỗi các linh hồn (salus animarum), linh mục sẽ cảm nghiệm chiều kích phổ quát, và do đó chiều kích truyền giáo, của căn tính sâu xa nhất của mình. 


3. Canh tân việc thực hành truyền giáo của các linh mục


Nhu cầu cấp bách của sứ vụ tryền giáo hiện nay đòi hỏi sự canh tân trong mục vụ. Các hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo đã thay đổi của thế giới chúng ta đang sống, trong sự khác biệt của chúng theo từng vùng hay môi trường xã hội văn hoá, đưa đến nhu cầu cần mở ra những đường hướng mới cho việc thực hành truyền giáo. Đức Thánh Cha Bênêđíctô, trong diễn từ nêu trên với các Giám Mục Đức, đã nói: "Tôi tin là chúng ta phải cùng nhau cố gắng tìm ra những đường hướng mới để mang Tin Mừng đến cho thế giới hiện đại"[21] .


Về vai trò của linh mục trong sứ vụ truyền giáo này, chứng ta nhớ lại yếu tính truyền giáo của chính căn tính linh mục, của tất cả và mỗi một linh mục, và lịch sử Giáo hội, cho chúng ta thấy vai trò thiết yếu không thể thay thế được của các linh mục trong hoạt động truyền giáo. Khi nói đến việc Tin Mừng hoá thừa sai trong lòng các Giáo Hội đã được thiết lập, hướng về những người đã được rửa tội nhưng "đã xa rời" và những người, trong các giáo xứ và các giáo phận, biết rất ít hay không biết gì cả về Chúa Giêsu Kitô, thì vai trò không thể thay thế được của linh mục càng được biểu lộ rõ ràng hơn.


Trong những cộng đoàn đặc biệt và cộng đơàn giáo xứ, thừa tác vụ của các linh mục tỏ cho thấy Giáo Hội như là biến cố biến đổi và cứu rỗi, được thực hiện trong cuộc sống hằng ngày của xã hội. Ở đó linh mục rao giảng Lời Chúa, truyền bá Tin Mừng và dạy giáo lý, giải thích cách trung thành và trọn vẹn giáo lý thánh. Họ giúp các tín hữu đọc và hiểu Kinh Thánh, quy tụ dân Chúa để cử hành Thánh Thể và các bí tích khác, khích lệ các hình thức đạo đức và cầu nguyện chung khác. Họ đón nhận những ai đến tìm sự nâng đỡ, an ủi, ánh sáng, đức tin, việc giao hoà và đến gần Chúa, và họ triệu tập và hướng dẫn những cuộc gặp gỡ của cộng đoàn nhằm học hỏi, phát triển và thực thi những kế hoạch mục vụ. Họ dẫn dắt và khích lệ cộng đoàn trong việc thực thi đức bác ái đối với những người thiếu thốn và nghèo khó trong tinh thần bằng việc cổ võ công bằng xã hội, nhân quyền, phẩm giá con người bằng nhau, tự do đích thực, sự hợp tác huynh đệ, và hoà bình, theo như những nguyên tắc của học thuyết xã hội của Giáo Hội. Như những người cộng tác với giám mục, chính họ có trách nhiệm mục vụ trực tiếp.


3.1. Nhà truyền giáo phải là môn đệ


Tin Mừng cho chúng ta thấy nhà truyền giáo trước hết phải là môn đệ. Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại: "Và Ngài lên núi, gọi những người Ngài muốn đến; và họ đến với Ngài. Và Ngài chọn 12 người để ở với Ngài, và Ngài sai họ đi rao giảng và ban cho họ quyền trừ quỷ" (Mc 3,13-15). "Ngài gọi những người Ngài muốn đến" và "ở với Ngài": đây chính là tính chất môn đệ! Những môn đệ này sẽ được sai đi rao giảng và khử trừ ma quỷ: họ là những nhà truyền giáo. 


Trong Tin Mừng Gioan, lời kêu gọi những môn đệ đầu tiên "Hãy đến mà xem" (Gn 1, 39), họ gặp gỡ Chúa Giêsu, và công việc truyền giáo đầu tiên của họ là kêu gọi những người khác, nói cho họ về Đấng Thiên Sai mà họ đã gặp biết và đưa họ đến với Chúa Giêsu, Đấng hiện thời vẫn còn đang kêu gọi mọi người làm môn đệ Ngài (xem Gn 1, 35-51).


Toàn bộ hành trình của người môn đệ bắt đầu với việc Chúa gọi. Bước khởi đầu luôn xuất phát từ Ngài. Điều này có nghĩa ơn gọi là một ân sủng phải được đón nhận cách khiêm tốn và tự do và ấp ủ với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước. Đây là ưu vị của ân sủng. Và rồi ơn gọi tiếp tục bằng việc gặp gỡ với Chúa Giêsu, qua đó chúng ta nghe Lời Ngài và cảm nghiệm tình yêu của Ngài cho mỗi người và cho cả nhân loại. Ngài yêu thương chúng ta và mạc khải Thiên Chúa đích thực cho chúng ta: Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu. Trong Tin Mừng chúng ta có thể nhận thấy qua việc gặp gỡ này Thần Khí Chúa Giêsu đã biến đổi những ai có tâm hồn rộng mở như thế nào.


Vì vậy, tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu đều cảm nghiệm được sự dấn thân sâu xa vào con người và sứ vụ của Ngài trên trần gian: họ tin vào Ngài, cảm nghiệm tình yêu của Ngài, gắn bó với Ngài, và chọn đi theo Ngài vô điều kiện bất cứ nơi đâu mà Ngài đưa đến; họ tận hiến cả cuộc đời cho Ngài, và nếu cần, sẵn sàng chết cho Ngài. Do gặp gỡ với Chúa Giêsu họ có được tâm hồn vui tươi và nhiệt thành, bị quyến rũ bởi mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và lăn xả ra loan báo về Ngài cho mọi người. Vì thế các môn đệ trở nên như Thầy mình, được Ngài sai đi và được Chúa Thánh Thần phù trợ.


Con người hôm nay cũng đang hỏi chính là câu hỏi mà một số người Hi Lạp ở trong thành đã hỏi khi Chúa Giêsu vào thành như Đấng Thiên Sai: "Chúng tôi muốn gặp Giêsu" (Gn 12, 21). Ngày nay chúng ta cũng hỏi chính câu hỏi này. Làm thế nào và ở đâu chúng ta gặp được Chúa Giêsu ngày hôm nay, trong thời của Giáo Hội, khi Ngài đã trở về cùng Thiên Chúa Cha? 


Đức Thánh Cha khả kính Gioan Phaolô đã khai triển sự cần thiết của việc gặp gỡ với Chúa Giêsu của mọi Kitô hữu, để họ có thể tái xuất phát từ Ngài để loan báo cho nhân loại hiện nay. Cùng lúc Ngài cũng đưa ra những nơi đặc biệt để có thể gặp gỡ Chúa Giêsu ngày nay. Nơi đầu tiên mà Đức Thánh Cha nói đến là "Thánh Kinh được đọc dưới ánh sáng của Thánh truyền, của Các Giáo Phụ và của Huấn Quyền của Giáo Hội, được đào sâu nhờ suy niệm và tâm nguyện", tức là Lectio Divina, việc đọc Kinh Thánh trong cầu nguyện. Nơi thứ hai mà Đức Thánh Cha nói đến là Phụng vụ, là các Bí Tích, một cách rất đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Trong trình thuật việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Emmaus, chúng ta nhận ra sự liên kết mật thiết giữa Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể, là nơi gặp gỡ với Chúa Kitô. Nơi thứ ba được nói đến trong Tin Mừng Mátthêu về ngày phán xét chung, trong đó Chúa Giêsu đồng nhất hoá mình với người nghèo khó (xem Mt 25, 31-36)[22] .


Một phương cách căn bản và quý giá để gặp gỡ Chúa Giêsu là việc cầu nguyện cá nhân hay cộng đồng, đặc biệt là cầu nguyện trước Thánh thể và trung thành đọc PhụngVụ các Giờ Kinh. Ngay cả việc chiêm niệm các tạo vật cũng là một phương thế để gặp gỡ Chúa. 


Mỗi Kitô hữu phải được đưa đến với Chúa Giêsu để trui rèn, đổi mới và làm cho sâu đậm hơn cuộc gặp gỡ cá nhân hay cộng đồng với Chúa Giêsu. Chính từ cuộc gặp gỡ này phát sinh và tái sinh người môn đệ; và từ các môn đệ mới có công cuộc truyền giáo. Nếu điều này đúng thật cho mỗi Kitô hữu, thì càng đúng biết bao cho các linh mục[23] .


Ngưòi môn đệ là nhà truyền giáo, họ phải là thành viên của cộng đoàn các môn đệ và các nhà truyền giáo là Giáo Hội. Chúa Giêsu đến trần gian và hiến mình trên Thánh Giá để "Để quy tụ thành một các con cái Chúa đang tản mát" (Gn 11, 52). Cộng đồng Chung Vatican II dạy rằng: "Tuy vậy, Thiên Chúa không làm cho con người nên thánh hay cứu rỗi họ như những cá nhân, mà không có mối dây liên kết nào với người khác. Nhưng đúng hơn là Ngài yêu thích đưa mọi người lại với nhau thành một dân duy nhất, một dân chân nhận Ngài trong chân lý và phục vụ Ngài trong sự thánh thiện"[24] . Chúa Giêsu cùng với các môn đệ, đặc biệt Nhóm Mười Hai, đã khai mở cộng đồng mới này là Giáo Hội để hiệp nhất các con cái Chúa tản mát. Sau khi Ngài về với Thiên Chúa Cha, các Kitô hữu đầu tiên sống thành cộng đoàn, dười sự lãnh đạo của các tông đồ, mỗi môn đệ tham dự vào đời sống cộng đoàn và các cuộc hội họp của các anh em, đặc biệt trong nghi thức bẻ bánh Thánh Thể. Chính trong Giáo Hội, và bắt đầu với việc hiệp thông hữu hiệu với chính Giáo Hội, mà chúng ta sống và trở thành các môn đệ và các nhà truyền giáo.

Xem tiếp phần 2

1222    21-10-2011 19:55:37