Sidebar

Thứ Tư
15.05.2024

''Phúc Trình Đại Bồi Thẩm Đoàn Pensylvannia: Không Phải Như Nó Tỏ Ra'', nguyên văn tiểu luận của Peter Steinfels, kỳ cuối - tt

Vấn đề về việc công bố ầm ĩ

Tại sao một phúc trình đã dành 800 trang để chi tiết hóa các hành vi tình dục lại không thể dành hơn một chục trang hay gần như thế cho một cuộc phân tích chi tiết và các phát hiện được cắt xén chính xác đến thế? Tại sao các cáo buộc sâu rộng và gây thiệt hại gần như giống hệt nhau khắp trong phúc trình?

Chính sách của Đức cha Trautman, mà cuộc nghiên cứu độc lập của Gates về giáo phận Erie đã đánh giá là “kém minh bạch” hơn so với chính sách của Giám mục Persico, có một ý nghĩa nào đó. Nhưng yêu cầu công khai hóa đầy đủ tên của những người bị tố cáo một cách đáng tin cậy cũng thế. Thực thế, việc này ngày càng trở thành một việc ngầm định (default possition) cho các giáo phận (và các dòng tu) trên khắp đất nước, đặc biệt vì các cuộc điều tra như cuộc điều tra ở Pennsylvania chắc chắn sẽ nêu tên trong mọi trường hợp.

Dĩ nhiên, làm như vậy đặt ra nhiều vấn đề. Ngày nay, có sự đồng thuận là, vì các chấn thương và xấu hổ liên quan đến các trải nghiệm như vậy, hầu hết mọi người tố cáo mình bị quấy nhiễu lúc còn nhỏ đều đã nói sự thật. Gánh nặng nêu bằng chứng, trái với các tuyên bố ngược lại, đã bị đảo ngược. Bất cứ ai bị buộc tội một cách mạnh mẽ bây giờ bị giả thiết là có tội, hoặc ít nhất rất có thể có tội, cho đến khi được chứng minh là vô tội. Trong số những người vi phạm được liệt kê trong phúc trình, một số lớn có rất ít cơ hội để tự bảo vệ mình, chắc chắn không phải ở tòa án, và không có cơ hội nào cả khi các tố cáo chỉ xuất hiện sau cái chết của họ.

Hãy xem trường hợp của Cha Richard D. Lynch. Ngài qua đời năm 2000. Bốn năm sau, một người đàn ông gọi điện cho giáo phận phàn nàn về phong trào duy nữ trong giáo hội và đề cập đến “một vụ liên quan đến tình dục cách đây nhiều năm trước” bởi vị hiệu trưởng trường trung học của mình, là Cha Lynch. Người gọi nói rằng vào năm 1978, khi người gọi là một học sinh cuối cấp ở trường trung học, anh đang quét dọn phòng thay đồ thì cha Lynch đụng vào anh ở phần thân thể riêng tư và ép anh vào tường. Trong một cuộc gặp gỡ năm 2004 với Đức cha Trautman và một quản trị viên khác của giáo phận Erie, người đàn ông này cho rằng sau đó anh cần phải giải phẫu lưng. Các ghi chú từ cuộc gặp gỡ đó viết rằng người đàn ông “có các vấn đề tâm lý”, dễ dàng bị kích động, nhưng “thường bình tĩnh trở lại khi nói chuyện với ngài”. Anh được cố vấn về quyền hợp pháp của mình trong việc phúc trình tác phong tình dục với chưởng lý quận.

Mười năm sau, tức năm 2014, người tố cáo tái xuất hiện. Một loạt thư từ cho thấy anh bị lôi kéo vào một cuộc cãi vã về lô đất chôn cất của cha mẹ anh tại một nghĩa trang Công Giáo. Sau đó viết thư cho Đức cha Persico vào năm 2016 từ nhà tù tiểu bang ở Albion, người đàn ông này đã phàn nàn về việc mình bị đối xử bởi hai phó tế được giao cho thừa tác vụ nhà tù - và một lần nữa, tố cáo việc bị lạm dụng tình dục bởi Cha Lynch. Thừa nhận rằng trước đây anh ta không nhất quán trong việc tố cáo mình bị lạm dụng tình dục cũng như lạm dụng thể lý bởi Cha Lynch, anh gán điều này cho việc xấu hổ. Trong một cuộc gặp gỡ kéo dài 45 phút với một phó tế tại nhà tù, anh chủ yếu chỉ phàn nàn về việc giáo hội được quản trị tồi tệ như thế nào mà thôi. Sau đó, anh đã đòi “một ngân phiếu trị giá 20,000 đô la chỉ để đóng các sổ sách về thời đại này lại”; anh nói thêm “tôi đang cố gắng giữ im lặng để vụ việc này không bao giờ được công khai”. Đức Giám Mục Persico đã báo cáo tất cả những tố cáo này với các văn phòng chưởng lý quận và an toàn trẻ em và đã viết cho người đàn ông rằng giáo phận quan tâm đến việc chữa lành hơn là giữ im lặng mọi chuyện. Người ta dám coi người tố cáo này như một tay bất mãn kỳ quặc. Thực thế, cả Giám mục Trautman năm 2004 và Giám mục Persico sau năm 2014 cũng như bất cứ nhân viên giáo hội nào khác dường như không ai đã làm như vậy; dù sao, các nạn nhân bị lạm dụng tình dục thường kết thúc ở chỗ rất bị bối rối. Nhưng không có cáo buộc nào khác chống lại cha Lynch từng được ghi lại.

Điều đó đã không giúp ngài khỏi bị kể vào số “những người phạm tội” của đại bồi thẩm đoàn. Và giáo phận Erie công khai liệt kê cha Lynch vào một nhóm “hiện đang bị điều tra, và mỗi người được giả thiết là vô tội trừ khi được chứng minh khác đi”.

Cha Lynch, nay đã chết được mười tám năm, có thực sự “hiện đang bị điều tra”, nhưng “được giả thiết là vô tội trừ khi được chứng minh khác đi” hay không? Khi nào cuộc điều tra sẽ hoàn tất? Theo nghĩa nào, ngài có thể được “giả thiết là vô tội”, khi bị đưa vào danh sách được quảng bá ầm ĩ các linh mục và nhân viên giáo hội khác “bị tố cáo một cách đáng tin cậy” đã lạm dụng hoặc đe dọa trẻ em? Chưa nói tới việc bị liệt kê là “kẻ phạm tội” bởi một đại bồi thẩm đoàn tiểu bang?

Cách đây không lâu, việc đề cử Brett Kavanaugh vào Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã khiến cả nước lao vào một cuộc tranh cãi về việc suy đoán vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội. Các cuộc tranh luận gay gắt thậm chí còn xoay quanh tính hợp pháp và hoạt động của các cơ quan đăng ký tội phạm tình dục liên bang và tiểu bang - và các cơ quan áp dụng vào các cá nhân đã bị xét xử và kết án một cách hợp pháp, chứ không chỉ được coi như “bị tố cáo một cách đáng tin cậy” bởi một giáo phận hoặc một thực thể khác. Tuy nhiên, hầu như không ai nêu câu hỏi về một đại bồi thẩm đoàn, một bộ tưởng tư pháp hoặc một giáo phận tuyên bố một cách có thẩm quyền rằng rất nhiều linh mục và giám mục phạm các tội ác khủng khiếp, nhưng nhiều người không có bất cứ phiên xử nào hay cơ hội nào để tự bào chữa.

Đây không phải là nơi để giải quyết vấn đề nan giải này. Có những lý lẽ hợp lý từ mọi bên. Tuy nhiên, điều phúc trình Pennsylvania làm là dựng các bảng quảng cáo tên của tất cả những kẻ lạm dụng bị tố cáo hoặc nghi ngờ một cách đáng tin cậy, hiện tại hay quá khứ, còn sống hay đã chết, có cơ hội trả lời các tố cáo hay không, coi nó như một tiêu chuẩn không thể tranh cãi. Bất cứ điều gì kém hơn thế đều bị phúc trình lên án trong yếu tính như là “che dấu” một cách phạm pháp. Nếu đúng như thế, thì điều đó không nên được tuyên bố đơn phương bởi một đại bồi thẩm đoàn mà phải được thiết lập bằng đạo luật và áp dụng cho tất cả các tổ chức chứ không phải cho một mình Giáo Hội Công Giáo.

Erie có phải là ngoại lệ không?

Nếu cuộc xem xét cẩn thận của Giáo phận Erie đối với chính các hồ sơ trong phúc trình bác bỏ các cáo buộc chung chung chống lại các viên chức giáo hội, những cáo buộc vốn nhận được sự lưu ý trên toàn thế giới, thì sao? Liệu những lời cáo buộc này có đúng đối với các giáo phận khác và các nhà lãnh đạo của họ hay không?

Mỗi giáo phận có một lịch sử riêng, một số tốt hơn, một số tệ hơn, như mẫu của tôi về hàng trăm hồ sơ của những người phạm tội đã tiết lộ. Những hồ sơ này chắc chắn là rất khó viết từ các tập tin giáo phận không đồng đều; như đã lưu ý, chúng không tuân theo bất cứ khuôn mẫu tiêu chuẩn nào nhưng thay đổi từ giáo phận này sang giáo phận nọ, có lẽ tùy thuộc vào điều các nhân viên của văn phòng Bộ trưởng Tư Pháp đã viết. Những lỗ hổng trong các bản tóm tắt này khiến người ta không còn nghi ngờ gì nữa về các rù quyến quỷ quyệt và các vi phạm tàn bạo của những kẻ quấy rối nhưng thường tiết lộ rất ít về động cơ của các viên chức giáo hội. Phản xạ Bàn giấy? Cố ý bác bỏ? Cố tình che đậy? Cảnh giác đáng khen ngợi?

Giống như Erie, mọi giáo phận đều có những trường hợp đặc biệt đáng xấu hổ, thường có từ nhiều thập niên trước. Đức ông Thomas J. Kinzling, chưởng ấn và tổng đại diện của giáo phận Greensburg trong khoảng thời gian từ 1984 đến 1988, đã đệ nạp lời khai bằng văn bản cho đại bồi thẩm đoàn, mô tả các câu trả lời của Đức cha William G. Connare (1960-1987) như là tùy tiện và lừa đảo. (Cần nói thêm rằng Kinzling cũng đưa ra những lời chỉ trích mạnh mẽ đối với phúc trình và Connare không còn sống để tự bênh vực).

Như Erie, các hồ sơ của Allentown cho thấy một phần trăm cao các người phạm tội (mười lăm trong số ba mươi sáu) không bị buộc tội cho đến năm 2002 hoặc sau đó, lúc không còn vấn đề tái bổ nhiệm hoặc giữ chân họ trong thừa tác vụ hoạt động - nếu họ chưa chết, đã nghỉ hưu, hoặc bị hoàn tục. Tuy nhiên, không như Erie, Allentown dựa vào sự đánh giá và điều trị của các cơ sở của Dòng Servant of Paraclete (Đầy tớ Đấng An Ủi) ở New Mexico, sau đó bị chỉ trích gay gắt. Trong ít nhất chín trường hợp, chủ yếu là trong thập niên 1980, mặc dù không thể nói rằng các nhà lãnh đạo giáo phận “không làm gì”, họ đã điếc hoặc mù một cách đáng buồn trước những nguy hiểm đặt ra cho các trẻ em, trong một số trường hợp thật kinh hoàng.

Năm 1993, Scranton, dưới quyền Đức Giám Mục Joseph C. Timlin, đã trở thành một trong những giáo phận đầu tiên trên toàn quốc đưa ra một chính sách có hệ thống để xử lý các tố cáo và chuyển các cáo buộc lên một hội đồng giáo phận gồm các giáo dân có trình độ chuyên nghiệp được nhìn nhận trong các lĩnh vực như phân tâm học, công tác xã hội và thực thi pháp luật. Các biện pháp này tiếp theo vụ bắt giữ năm 1991 một linh mục có lịch sử tạo ra điển hình cổ điển về cách các lời tố cáo lạm dụng sâu rộng bởi cha mẹ và một mục tử đã được xử lý ra sao vào năm 1968. Vị linh mục đưa ra lời bác bỏ không thuyết phục được ai, bị gửi đi tĩnh tâm, sau đó trở lại thừa tác vụ . Các hồ sơ của đại bồi thẩm đoàn về những kẻ phạm tội ở Scranton ít lời một cách lạ thường, nhưng nhiều hồ sơ cho thấy việc loại bỏ nhanh chóng các linh mục bị cáo buộc khỏi thừa tác vụ và những thông báo đáng khen trong các bản tin giáo xứ truy tìm các nạn nhân khác. Những hành động đó trái ngược với những lời tỏ ý quan tâm khá chói tai đối với các linh mục bị tố cáo của Đức cha Timlin. Đặc biệt gây bối rối là quyết định vô trách nhiệm năm 1998 của ngài khi mời vào giáo phận một tổ chức nhỏ gồm các linh mục cực bảo thủ, nhưng có chứng cớ là phóng đãng về tình dục và tài chính – càng tệ hơn nữa sau khi ngài bênh vực họ.

Bất chấp các báo cáo không đầy đủ hoặc không chính xác từ Pittsburgh đã khiến Đức Hồng Y Donald Wuerl từ nhiệm chức vụ tổng giám mục Washington sau đó, câu trả lời của giáo phận Pittsburgh đã đưa ra một phản bác rõ ràng, sắc cạnh đối với nhiều khẳng định trong phúc trình, đối với bất cứ độc giả nào sẵn sàng đọc đến trang 1,113. Cũng ở Pittsburgh, gần 40% các tố cáo đáng tin cậy - hầu hết là các vụ lạm dụng trước đó - đã được đưa ra sau quy tắc tuyệt đối không khoan nhượng năm 2002 về việc tự động bị loại khỏi thừa tác vụ.

Nói tóm lại, bất kể giá trị của các đáp ứng của Erie ra sao, tôi không tìm thấy cơ sở nào để coi nó là một ngoại lệ hoàn toàn.

Vì vậy, câu hỏi vẫn là: Nếu có thể làm được sự phân biệt nào từ giáo phận này sang giáo phận nọ hoặc từ một nhiệm kỳ giám mục này đến một nhiệm kỳ giám mục khác, thì tại sao lại không làm? Tại sao một phúc trình sâu rộng, công phu như vậy lại bôi tro trát trấu mọi nhà lãnh đạo của tất cả các giáo phận trong cả bảy thập niên với cùng một bút lông như thế? Tại sao một phúc trình đã dành 800 trang để chi tiết hóa các hành vi tình dục lại không thể dành hơn một chục trang hay gần như thế cho một cuộc phân tích chi tiết và các phát hiện được cắt xén chính xác như thế? Tại sao các cáo buộc sâu rộng và gây thiệt hại gần như giống hệt nhau khắp trong phúc trình?

Mục tiêu thực sự

Tôi tin rằng câu trả lời hợp lý nhất nằm ở một trong bốn khuyến cáo không độc đáo và không đáng kể bao nhiêu của bản phúc trình. Ở Pennsylvania, thời hiệu hình sự đối với các lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên đã không ngừng được nới rộng; khuyến cáo đầu tiên của đại bồi thẩm đoàn là loại bỏ nó hoàn toàn. Luật Pennsylvania buộc phải báo cáo việc lạm dụng cũng đã được liên tiếp mở rộng hay thắt chặt; đại bồi thẩm đoàn đề nghị nó nên được làm rõ để bao gồm việc báo cáo bất cứ kẻ lạm dụng trong quá khứ nào miễn là có lý do để tin rằng người này sẽ lạm dụng một lần nữa. Đại bồi thẩm đoàn cũng khuyến cáo rằng không vụ dàn xếp các vụ kiện nào được bao gồm các thỏa thuận bảo mật nhằm để biện minh cho một trong hai bên không hợp tác với một cuộc điều tra hình sự. Các chuyên gia pháp lý có thể phát hiện các vấn đề kỹ thuật trong các khuyến cáo này, nhưng chúng có vẻ phù hợp với các thực hành hiện nay của giáo hội.

Khuyến cáo hồi tố là một khuyến cáo đã được thi hành ở bốn tiểu bang (California, Minnesota, Hawaii và Delware) và được đề xuất ở nhiều nơi khác. Đại bồi thẩm đoàn kêu gọi một “cửa sổ dân sự” trong hai năm, trong thời gian này, các nạn nhân có thể kiện các giáo phận về việc lạm dụng không những khi những người bị tố cáo dưới ba mươi, như luật Pennsylvania hiện quy định, nhưng bất kể tuổi tác của họ. Các giám mục Pennsylvania trước đây đã phản đối luật lệ tương tự với lý do sẽ khiến các giáo phận, các giáo xứ và các tổ chức từ thiện phải chịu những tổn thất lớn, thậm chí phá sản, vì những hành động sai trái của những người khác từ nhiều thập niên trước. Ai sẽ bị phạt vì những tội ác này? Không phải những kẻ săn mồi thực sự và các viên chức lơ đễnh hoặc có tội của giáo hội, trong hầu hết các trường hợp đã chết hoặc không có tài sản, nhưng là các người Công Giáo không liên quan gì đến những việc làm đó. Thời gian sẽ làm xói mòn các ký ức, bằng chứng và việc sẵn có các nhân chứng. Các bản án hoặc dàn xếp sẽ là võ đoán. Hội đồng giám mục Pennsylvania, giống như các đối tác của nó ở nhiều tiểu bang khác, đã lập luận tính không hợp tình hợp lý của việc gỡ bỏ thời hiệu đối với các vụ kiện như thế chống lại giáo hội và các tổ chức phi lợi nhuận khác trong khi áp dụng chúng, dựa vào học thuyết “quyền tối cao của nhà nước”, cho các trường công lập, trung tâm giam giữ vị thành niên, hoặc các cơ quan nhà nước khác, nơi nhiều lạm dụng hơn đã diễn ra.

Tất cả điều này có thể bị tranh cãi. Thực thế, ngày càng có nhiều giáo phận, bao gồm cả những giáo phận ở Pennsylvania, đang thiết lập các chương trình để bồi thường cho những người sống sót việc lạm dụng một cách tự nguyện thông qua việc trọng tài thay vì kiện tụng, một việc đáng lẽ phải được thực hiện tại địa phương hoặc toàn quốc sớm nhất là vào thập niên 1990 và chắc chắn vào năm 2002. Nhưng điểm quan yếu liên quan đến phúc trình Pennsylvania là nó đã được thiết kế để trở thành một vũ khí trong cuộc tranh luận. Phong cách sôi nổi, gợi hình của nó; cách nó coi giới lãnh đạo của giáo hội như không tốt hơn, thậm chí còn tệ hơn những kẻ lạm dụng; việc nó bác bỏ đưa ra các khác biệt giữa các giáo phận hoặc giữa các thời kỳ như trước và sau Hiến chương Dallas: tất cả đều nhằm mục đích huy động công luận ủng hộ việc đình chỉ thời hiệu đối với các vụ kiện dân sự và bác bỏ sự chống đối của giáo hội.

Mục tiêu đó là một điều tốt hay điều xấu được bỏ ngỏ để tranh luận. Nhưng công cụ mà văn phòng bộ trưởng tư pháp đã xây dựng để đạt được nó là một công cụ không chính xác, không hợp tình hợp lý và sai lạc từ trong căn cơ. Những thiếu sót của nó không nên được ngụy trang bằng văn phong kịch liệt của nó, cấu trúc làm đần độn của nó, hoặc khối lượng lớn lao của nó.

374    18-01-2019