Sidebar

Thứ Năm
16.05.2024

''Phúc Trình Đại Bồi Thẩm Đoàn Pensylvannia: Không Phải Như Nó Tỏ Ra'', nguyên văn tiểu luận của Peter Steinfels, kỳ cuối

Một góc nhìn khác

Những câu chuyện tương phản được phúc trình kể lại và Đức cha Trautman cũng có thể được kiểm tra dựa trên cuộc nghiên cứu của Gates do giáo phận ủy nhiệm. Cuộc nghiên cứu của Gates không gọt giũa chữ nghĩa: trái lại nó thừa nhận “trong phạm vi Giáo phận Erie, việc lạm dụng khủng khiếp đã diễn ra - và được che giấu – khá sớm từ đầu thập niên 1940 qua thập niên 1980. Các hành vi ít có tính hệ thống hơn nhưng cũng đáng trách không kém đã xảy ra mấy năm sau đó khi các phạm nhân trong Giáo hội lợi dụng lòng tín thác trước đây vốn dành cho hàng giáo sĩ.

Cuộc nghiên cứu của Gates tiến hành để đưa ra một điển hình đại diện cho “những thất bại có tính lịch sử” của giáo hội. Năm 1994, các tố cáo xuất hiện cho rằng Michael Barletta, lúc còn là linh mục, đã lạm dụng các học sinh trong thập niên 1970 và thập niên 80, rất lâu trước nhiệm kỳ của Đức Cha Trautman. Nhưng Đức Cha Trautman đã liên lạc với một linh mục sống trong một nhà xứ với Barletta. Vị linh mục này đã mô tả việc chứng kiến người bị tố cáo này với một thiếu niên khỏa thân thập niên 1970 và báo cáo điều này với Đức Giám Mục lúc ấy là Đức Cha Alfred Watson. Đức Cha Watson đã nói với ngài: Hãy lo việc của cha đi. Hãy trở về nhà xứ của cha, và làm một linh mục tốt đi”. Theo nghiên cứu của giáo phận, “Đức Cha Watson lúc đó đã thuyên chuyển Barletta sang một trường khác, nơi Barletta sau đó đã lạm dụng thêm nhiều thanh thiếu niên khác”. Đây là trường hợp cổ điển của việc “vận chuyển” (shuttling) hay “thuyên chuyển” (shuffling) kẻ lạm dụng từ giáo xứ này sang giáo xứ khác, tạo thêm sự lạm dụng mới vào sự thiệt hại đã gây ra.

Nghiên cứu của Gates kết luận “Trước năm 1982, các tố cáo lạm dụng không được xử lý đúng cách .... Nhiệm kỳ từ 1969 đến 1982 của Giám mục Watson bị hoen ố bởi nhiều vụ lạm dụng, cùng với sự coi thường hoàn toàn việc bảo vệ trẻ em chống lại các linh mục bị tố cáo.

Nghiên cứu của Gates thấy rằng điều đó đã thay đổi, “với sự xuất hiện của Đức cha Murphy vào năm 1982, mặc dù chưa thỏa đáng đối với tiêu chuẩn ngày nay” . Đức Cha Murphy đã bổ nhiệm các linh mục bị tố cáo vào các thừa tác vụ, “nơi trẻ em không hiện diện, như quân đội, viện dưỡng lão hoặc tu viện”. Như đã lưu ý, ngài cũng tận dụng các chuyên gia y tế.

Cuộc nghiên cứu của Gates không phải không phê phán Đức cha Trautman; nó cho rằng ngài “đã cải thiện các thực hành”, nhưng “có lẽ sẽ tốt hơn ở một số phạm vi nào đó”. Một phạm vi là việc theo dõi các linh mục đang làm việc hoặc sống dưới các hạn chế, một lời phê phán bị Đức Cha Trautman thách thức nhưng được một số linh mục giáo phận phát biểu. Một phạm vi khác là “ Thông báo cho công chúng biết các vấn đề kỷ luật đối với các linh mục”, một điểm quan trọng sẽ được đề cập sau này.

Tuy nhiên, trong nhiều chi tiết cụ thể, nghiên cứu của Gates rất ủng hộ các hoạt động đã bắt đầu và mở rộng dưới thời Đức Cha Trautman. Nghiên cứu cho biết; dưới thời ngài, Giáo phận Erie đã ban hành chính sách bảo vệ trẻ em đầu tiên của mình hơn 30 năm trước, trước khi Giáo hội yêu cầu một chính sách như vậy khá lâu và trước các biến cố tạo tin tàn khốc tại Tổng giáo phận Boston, tiểu bang Pennsylvania, cơ quan Thể Dục Hoa Kỳ và các định chế nổi danh khác.

Nghiên cứu Gates tuyên bố rằng “Sẽ là một điều không hợp tình hợp lý khi chỉ cung cấp cho công chúng một nửa câu chuyện”.

Tổng kết vụ giáo phận Erie

Đó có phải là những gì phúc trình làm hay không? Hay tệ hơn? Có phải các nhà lãnh đạo giáo hội trong giáo phận Erie đã làm ngơ các lời khiếu nại hoặc tố cáo hay không? Có phải họ đã bổ nhiệm lại các linh mục mà không quan tâm chi đến sự nguy hiểm cho các trẻ vị thành niên? Có phải nạn nhân đã “bị gạt sang một bên”, bị răn đe hay gây áp lực để đừng đi đến cảnh sát và không được giúp đỡ không? Có phải tất cả những điều này đã được thực hiện để “bảo vệ những kẻ lạm dụng và các định chế của họ” hay không? Hay nói một cách gợi hình hơn, như bản phúc trình không ngần ngại làm, có đúng là trong khi “các linh mục hãm hiếp các bé trai và bé gái, những người của Thiên Chúa” trong giáo phận Erie “không làm gì” khác ngoài việc che giấu nó?

Một đánh giá cẩn thận bằng chứng riêng của phúc trình từ Erie, được sửa chữa đây đó bởi nghiên cứu Gates và lời khai của Đức Cha Trautman, cho thấy: các câu trả lời cho các câu hỏi đó là, tiếng “không” áp đảo.

Cũng như có thể được xác định bởi các hồ sơ của phúc trình, trong gần một phần ba số người phạm tội, giáo phận đã nhận được những tố cáo đầu tiên về sự lạm dụng trong quá khứ từ năm 2002 đến 2017. Bốn trong số các giáo sĩ bị tố cáo đã chết từ lâu; một số đã nghỉ hưu hoặc rời bỏ chức linh mục theo thoả thuận riêng của họ từ lâu. Dưới điều khoản tuyệt đối không khoan nhượng của Hiến chương Dallas, những người còn lại trong thừa tác vụ đều nhanh chóng bị cấm thi hành mọi vai trò linh mục và nhận diện công khai và, khi cần, bị hoàn tục.

Trong một phần ba các trường hợp đơn giản không được biết đến này, các nhà lãnh đạo giáo hội khó có thể bị cho rằng đã “gạt bỏ” các nạn nhân, không làm gì cả, dấu giếm và tái bổ nhiệm các kẻ săn mồi. Khi sự lạm dụng đã được biết đến, bằng chứng sẵn có cho thấy các nạn nhân đã được liên lạc một cách thiện cảm và cung ứng việc huấn đạo và sự hỗ trợ, và các tội ác được báo cáo cho chưởng lý quận.

Đâu là khuôn mẫu trong hai phần ba khác? Phần lớn việc lạm dụng xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến năm 1985, phù hợp với khuôn mẫu được nghiên cứu của John Jay phát hiện, nhưng hầu như tất cả đều được đưa ra ánh sáng sau năm 1982, trong các nhiệm kỳ của các Giám mục Murphy và Trautman. Trong bốn trường hợp, khi người tiền nhiệm biết đến sự lạm dụng, người ta có thể nói, như nghiên cứu của Gates từng nói, rằng nó đã được đề cập bằng “một sự coi thường hoàn toàn đối với việc bảo vệ trẻ em”. Nhưng hồ sơ của phúc trình không cung cấp cơ sở nào cho lời cáo buộc này: trong hơn ba thập niên và vô số vụ án, Đức Cha Murphy, Đức Cha Trautman, và Đức Cha Persico đã “gạt” các nạn nhân “sang một bên”, tái bổ nhiệm các linh mục bị cáo buộc chứ không quan tâm chi đến các nguy hiểm đối với trẻ em, hoặc ngăn cản các nạn nhân chạy đến luật pháp. Không có bằng chứng nào cho thấy Đức Cha Murphy hoặc Đức Cha Trautman đã gửi các linh mục đến các trung tâm điều trị như một mưu mẹo chỉ nhằm che giấu hơn là loại bỏ nguy hiểm. Khi các tố cáo mới làm nổi bật tầm mức lạm dụng trong quá khứ, Đức Cha Trautman đặc biệt đã hành động một cách khẩn trương để loại bỏ các linh mục này khỏi thừa tác vụ. Ngài đã đích thân tiếp tiếp xúc với các nạn nhân và không ngăn cản họ đến cảnh sát hoặc các công tố viên.

Sau khi có được các kết luận trên từ việc lục lọi bằng chứng có sẵn, tôi đã muộn màng phát hiện ra rằng Văn phòng Bộ trưởng Tư pháp Pennsylvania, trong một tài liệu pháp lý ít được lưu ý, về cơ bản đã thừa nhận khá nhiều hồi tháng 8 năm ngoái. (Xem phụ lục bên lề ở cuối bài này).

Những lỗ hổng trong hồ sơ của phúc trình về những người phạm tội ở giáo phận Erie khiến một số trường hợp khó theo dõi, trong đó có ba trường hợp các linh mục được thuyên chuyển từ giáo phận đến Hawaii, Texas, và, trong một thời gian ngắn, tới New York. Nhưng ngay cả việc ta chấp nhận các phán đoán sai và không chắc chắn đi nữa, điều các hồ sơ Erie cho thấy cách chung không những phản bác các cáo buộc của phúc trình mà trên thực tế, còn trái ngược hoàn toàn với trình thuật tiêu chuẩn về một vụ tai tiếng lạm dụng tình dục, tức là, các giám mục đã phản ứng với các tố cáo lạm dụng bằng cách cố ý thuyên chuyển các linh mục nguy hiểm từ giáo xứ này đến giáo xứ nọ.

Tạm dừng, cần phải tạm dừng lại. Nói như vậy là không phủ nhận hay làm giảm bớt những đau khổ không thể tha thứ được gây ra cho các nạn nhân, vào thời điểm đó hoặc trong những năm dài sau đó. Điều ấy không có ý nói rằng sự thuyên chuyển như vậy không bao giờ xảy ra dưới thời các giám mục trước đó. Chỉ có thể nói rằng bằng chứng riêng của đại bồi thẩm đoàn không chứng minh được kịch bản phổ biến về cách những kẻ săn mồi thoát khỏi việc phạm tội và tái phạm các tội ác của họ. Thay vào đó, bằng chứng của phúc trình cho thấy rằng – xin nhắc lại - trong hơn ba thập niên qua và trong đại đa số các trường hợp, các giám mục Erie đã không trả lời các tố cáo lạm dụng bằng cách cố tình thuyên chuyển các linh mục nguy hiểm từ giáo xứ này đến giáo xứ nọ.

Định nghĩa “che giấu”

Một cuộc duyệt xét phản ứng của giáo phận Erie đối với cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục cũng làm sáng tỏ một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong vụ tai tiếng lạm dụng tình dục Công Giáo: công bố ầm ĩ tên của những người bị coi là săn mồi nhưng không bao giờ bị kết án. Đây là một phần của mối quan tâm rộng lớn hơn, vốn là tâm điểm của phúc trình của đại bồi thẩm đoàn, rằng các giám mục và các viên chức giáo hội khác không những “không làm gì cả” trong khi “các linh mục hãm hiếp các bé trai và bé gái” mà còn che giấu tất cả.

Các phát hiện từng chữ từng chữ của phúc trình chống lại mọi giáo phận giải thích “che giấu” là (1) không khuyến khích nạn nhân đến cảnh sát; (2) gây áp lực để các cơ quan thi hành pháp luật không điều tra; hoặc (3) không báo cáo các tội ác chống trẻ em mà chỉ thực hiện “việc điều tra thiếu sót, thiên vị của chính họ”. Cáo buộc cuối cùng khá mỉa mai, vì có lẽ 90% người phạm tội hoặc nhiều hơn mà phúc trình đã liệt kê được nhận diện không phải bởi cảnh sát mà bởi những người cuộc điều tra “thiếu sót” của giáo phận ấy.

Thực thế, phúc trình có rất ít bằng chứng về việc các viên chức của giáo phận Erie can ngăn người ta trình các cáo buộc lạm dụng tình dục cho cảnh sát, mặc dù người ta có thể cho rằng sự tôn kính của Công Giáo đối với thẩm quyền giáo sĩ và cấm kỵ tình dục nói chung trong nền văn hóa trước đây khiến cho việc can ngăn trở thành không cần thiết. Năm 2002, Hiến chương Dallas đã bắt buộc phải báo cáo tất cả các tố cáo cho các cơ quan công quyền, hợp tác với các cuộc điều tra và tư vấn cho các nạn nhân biết quyền lợi của họ. Các hồ sơ cho thấy giáo phận Erie đã thường xuyên báo cáo các tố cáo lạm dụng vào thời gian đó, ngay cả khi phúc trình và các viên chức giáo phận đôi khi tranh cãi về những hồ sơ báo cáo nào tồn tại.

Còn về việc “che giấu” lạm dụng hay “che giấu” các giáo sĩ lạm dụng bằng các dàn xếp kể cả các thỏa thuận bảo mật thì sao? Vấn đề này đã được tranh luận trong nhiều thập niên. Một số luật sư đã tuyên bố rằng các thỏa thuận như vậy nên bị bác bỏ trong nguyên tắc. Các luật sư của các nạn nhân nổi tiếng khác không đồng ý như thế. Việc tranh tụng có thể kéo dài hoặc tùy hứng. Họ cho rằng bất cứ điều gì tạo điều kiện cho một sự dàn xếp nên là ưu tiên cho khách hàng của họ. Và, dĩ nhiên, trong một số trường hợp, rất có thể các nạn nhân muốn được giấu tên.

Một lần nữa, Hiến chương Dallas năm 2002 định rằng các giáo phận không được tìm kiếm các dàn xếp đòi phải bảo mật trừ khi nạn nhân yêu cầu. Các hồ sơ của đại bồi thẩm đoàn cho thấy tám dàn xếp ở Erie trong những năm qua. Ngày tháng không rõ ràng, cũng không có gì nói rõ về việc giáo hội đòi phải có những thỏa thuận bảo mật. Dù sao, các linh mục bị kiện không còn trong thừa tác vụ.

Tuy nhiên, vấn đề “che giấu” cũng vượt xa điều đó. Không có chuyện việc lạm dụng tình dục đã bị che giấu một cách vô ý thức, trước hết bởi chính những kẻ quấy rối đã dụ dỗ các cậu bé giúp lễ hoặc các nạn nhân khác đến một phòng ngủ của nhà xứ hoặc một nơi cắm trại ở miền quê và sau đó khiến chúng sợ hãi phải giữ bí mật và thứ hai, bởi các linh mục khác hay các viên chức khác của giáo hội bỏ qua các lời tố cáo và áp lực các nạn nhân hoặc gia đình phải bỏ các lòi tố cáo, hoặc thứ ba, và nổi tiếng hơn cả, bởi các giám mục dù đã nhận ra đầy đủ mối đe dọa mà một linh mục như thế đặt ra, nhưng vẫn đưa ông ta đến một giáo xứ xa xôi chỉ để giữ lời đồn khỏi vang xa.

Khi đưa các linh mục bị tố cáo “đi nghỉ vì sức khỏe” vì việc này được coi như việc đánh giá và điều trị chuyên môn có uy tín, có phải các giám mục này cũng can dự vào tác phong giả tạo tương tự không? Đối với phúc trình, “đi nghỉ vì sức khỏe” luôn là một che đậy đầy tính uyển ngữ. Còn về việc các giám mục đã loại bỏ các linh mục hoàn toàn ra khỏi hàng giáo sĩ, đã thông báo các lời tố cáo cho các cơ quan pháp lý, nhưng không đi xa hơn trong việc thông báo và giải thích công khai những hành động này thì sao?

Hiến chương Dallas tuyên bố rằng các giáo phận nên “cởi mở và minh bạch trong việc thông đạt với công chúng về việc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên bởi các giáo sĩ trong giới hạn tôn trọng quyền riêng tư và danh tiếng của các cá nhân liên hệ. Điều này đặc biệt là thế liên quan đến việc thông báo cho giáo xứ và các cộng đồng khác trực tiếp bị ảnh hưởng”. Cách nói này gợi ý một hành động cân bằng.

Sau khi Hiến chương Dallas bắt buộc loại bỏ tất cả các linh mục bị cáo buộc một cách đáng tin cậy khỏi bất cứ hình thức thừa tác vụ hay nhận dạng linh mục nào, những người bênh vực các nạn nhân bắt đầu thúc đẩy - và một số giám mục bắt đầu thi hành - một bước khác: nêu tên tất cả các linh mục bị cáo buộc một cách đáng tin cậy trong quá khứ, bất kể họ đã bị cấm khỏi thừa tác vụ, đã bị hoàn tục, hoặc thậm chí đã chết. Cơ sở lý luận là cho phép các nạn nhân trong quá khứ quyền được xuất hiện và tìm kiếm sự công nhận, giúp đỡ và bồi thường. Trọng tâm đã chuyển từ việc ngăn chặn lạm dụng trong tương lai sang việc sửa chữa các lạm dụng trong quá khứ.

Đây là một lĩnh vực trong đó chính sách của Erie dưới thời Đức cha Persico khác với chính sách thời Đức cha Trautman. Hiện nay, giáo phận Erie trình bầy rõ ràng một danh sách dài các cá nhân “bị cáo buộc một cách đáng tin cậy về các hành động, mà theo phán đoán của giáo phận, không cho phép người đó làm việc với các trẻ em”. Nó bao gồm các linh mục và giáo viên giáo dân, các nhân viên và tình nguyện viên. Nó liệt kê những người còn sống và đã chết từ lâu, trong đó có Giám mục Watson – vì đã thất bại “trong hành động ngăn chặn việc lạm dụng từng được báo cáo một cách đáng tin cậy cho họ”.



Giám mục Trautman theo một đường hướng khác. Không phải trong việc loại bỏ các linh mục khỏi thừa tác vụ cũng như trong bất cứ danh sách nào sau này như danh sách giáo phận hiện cung cấp, ngài đã công khai nêu tên của những người lạm dụng. Trong văn bản trả lời cho đại bồi thẩm đoàn, Đức cha Trautman khẳng định rằng, “đúng hay sai, phán đoán của ngài là việc công bố rầm rộ (publicity) chỉ gây hại, chứ không giúp đỡ các nạn nhân, và thân nhân của các linh mục bị tố cáo không nên phải đối đầu với sự chế giễu và khinh miệt công cộng sau khi công bố việc sa thải hoặc ngưng chức một linh mục bị tố cáo. Điều này thường nhất quán với yêu cầu của các nạn nhân, mà nhiều người trong số họ từng thông báo với Đức Giám Mục rằng họ không muốn tên của vị linh mục phạm tội được công khai vì sợ rằng họ cũng sẽ bị liên kết với cái tên đó và việc này có thể gây hại cho cả việc phục hồi của họ và cuộc sống họ đã xây dựng” Đức cha Trautman cũng chỉ ra rằng, “Không có luật liên bang, tiểu bang hoặc giáo luật nào yêu cầu tên tuổi phải được công khai”.

346    18-01-2019