Sidebar

Thứ Sáu
17.05.2024

Tìm Hiểu Về Phụng Vụ_Bài 5_1

Bài 5 :  PHỤNG VỤ THÁNH LỄ

"Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em : trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói : 'Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy"(1Cr 11,23-24)

Khi cử hành Thánh Lễ, Hội Thánh không làm gì khác hơn là tuân theo lệnh truyền của Chúa: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (KNTT)

I. BỮA ĂN CỦA CHÚA

Ăn uống là chuyện tự nhiên nhưng nó cũng bao hàm những tương quan xã hội và những cách hành xử mang ít nhiều tính nghi lễ. Ăn uống không phải chỉ cho thể xác được ăn no uống say mà nó còn mang một ý nghĩa đối với tâm trí con người, vượt ra ngoài tầm thể lý.

Khi để lại cho con người một bí tích về hy tế Vượt Qua của mình, Đức Giêsu đã chọn nghi thức một bữa ăn mà các tín hữu tiên khởi đã quen gọi là 'bữa ăn của Chúa' hay còn gọi là 'nghi thức bẻ bánh'. Các Kitô hữu tiên khởi đã thực hiện điều Chúa dạy trong khuôn khổ của một bữa ăn huynh đệ và bác ái, và họ gọi đó là bữa ăn của Chúa (1Cr 11,20). Trong bữa ăn huynh đệ ấy, họ đã làm cử chỉ bẻ bánh của Chúa: "Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn :vì này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con" (KNTT). Mặc dù Tân Ước không nói rõ, nhưng hình như 'việc bẻ bánh', tên gọi của Bí tích Thánh Thể, đã được cử hành đều đặn mỗi ngày Chúa Nhật.

"Trong ngày người ta gọi là ngày của mặt trời (ngày Chúa Nhật), tất cả mọi người ở thành thị cũng như ở thôn quê đều hội họp lại ở một nơi. Người ta đọc hồi ký của các tông đồ và các bài viết của các ngôn sứ, tuỳ theo thời gian cho phép. Đọc sách xong, vị chủ tọa lên tiếng và khuyên nhủ mọi người, hãy bắt chước các lời giáo huấn tốt lành đó. Sau đó tất cả chúng tôi đứng lên, và cùng nhau cầu nguyện lớn tiếng. Rồi, như chúng tôi đã nói, khi cầu nguyện xong, người ta mang tới bánh mì, rượu nho và nước. Vị chủ toạ dâng lên Chúa những lời cầu nguyện và cảm tạ tuỳ sức của ngài, và tất cả dân chúng đáp lại bằng lời hô lớn: Amen. Sau đó là việc phân phối, và chia phần các thức ăn đã được thánh hiến của mỗi người, và gửi phần cho các người vắng mặt, nhờ thừa tác vụ của các Phó Tế" (Minh Giáo I, 67).

Đoạn sách biện giáo của thánh Justinô gửi lên hoàng đế Antôniô Đạo Đức ở thế kỷ thứ hai (năm 150) đã miêu tả cho chúng ta thấy sự liên tục từ 'bữa ăn của Chúa' đến thánh lễ của Hội Thánh ngày hôm nay.

II. NGHI THỨC ĐẦU LỄ

"Các nghi thức trước phụng vụ Lời Chúa, tức là ca nhập lễ, lời chào, nghi thức sám hối, kinh Lạy Cha, xin thương xót, kinh Vinh Danh và lời nguyện nhập lễ đều có tính cách mở đầu, dẫn nhập và chuẩn bị. Mục đích các nghi lễ này là giúp cho các tín hữu đã tập hợp được hiệp thông với nhau và chuẩn bị tâm hồn để nghe Lời Chúa cho nghiêm chỉnh và để cử hành Thánh Lễ cho xứng đáng" (QCTQ 46).

 1) Ca nhập lễ :

Các bài tường thuật về việc tập họp khi cử hành nghi lễ bẻ bánh trong những thế kỷ đầu dường như chưa có nghi thức rõ ràng. Lý do là vì các tín hữu thời ấy còn cử hành Thánh Thể tại gia, và vì Hội Thánh chưa được tự do nên chưa thể tổ chức những nghi thức đầu lễ như sau này. Theo như thánh Justinô (tk II) thì cộng đoàn phụng vụ bắt đầu ngay bằng việc đọc Thánh Kinh.

Bắt đầu từ thế kỷ thứ tư trở đi, đã thấy xuất hiện thói quen hát Thánh Vịnh như mở đầu cho việc tập họp cộng đoàn phụng vụ, hoặc mở đầu bằng cuộc kiệu sách Phúc Âm và rước giám mục bằng cách hát xướng Thánh Vịnh và dân chúng lập lại các điệp khúc. Đây là hình thức ban đầu của ca nhập lễ với màu sắc hân hoan đón chào Chúa hiện diện giữa cộng đoàn, đặc biệt qua vị chủ sự và các thừa tác viên của cộng đoàn.

Phần tập họp cộng đoàn này có hai yếu tố chính :

- Cuộc rước đầu lễ có bài ca đi kèm, tức ca nhập lễ, được thực thi dưới hai hình thức : rước trọng thể và rước đơn giản.

Rước trọng thể có người cầm hương lửa đi đầu rồi đến thánh giá nến cao, các thừa tác viên không có chức thánh, Phó tế mang sách Phúc Âm chứ không phải sách bài đọc (hoặc một linh mục đồng tế, hoặc thừa tác viên đọc sách hay giúp lễ vì luật phụng vụ không dự trù cho giáo dân mang sách Phúc Âm(QCTQ 120d, 173, 194); sách Phúc Âm được rước sẽ đặt trên bàn thờ, và khi công bố Tin Mừng thì phó tế hoặc linh mục rước từ bàn thờ đến giảng đài), các phó tế, các linh mục đồng tế và cuối cùng là chủ tế có giúp lễ theo sau (trong bất cứ cuộc rước nào cũng không được thiếu thánh giá đèn hầu; khi rước kiệu ngày Chúa Nhật lễ Lá thì chủ tế sẽ đi ngay sau thánh giá đèn hầu rồi đến các thừa tác viên khác và cộng đồng).

Còn rước đơn giản là khi dân chúng đã tập họp thì giúp lễ và chủ tế tiến ra giữa nhà thờ, bái chào rồi hôn bàn thờ (không cần thánh giá và hương nến).

Khi chủ tế tiến ra là đã hát ca nhập lễ, nếu không hát thì đọc ca nhập lễ được in trong Sách Lễ Rôma. Có thể dùng Thánh Vịnh hoặc một bài thánh ca nào đó phù hợp với cử hành phụng vụ, với tính chất của ngày lễ, hay mùa phụng vụ. Mục đích của bài ca nhập lễ là tập họp cho nên khi cuộc rước đã hoàn tất thì không nên kéo dài bài hát. Tất cả các bài hát muốn được sử dụng trong thánh lễ hay nói chung trong các cử hành phụng vụ phải được thầm quyền của Hội Thánh phê chuẩn.

- Cử chỉ chào kính đầu lễ : trước hết là cử chỉ tôn kính đối với Chúa Kitô qua việc chủ tế cúi mình chào và hôn kính bàn thờ, rồi chào chúc cộng đoàn qua dấu thánh giá và câu đối đáp đưa cộng đoàn vào mầu nhiệm sắp cử hành trong tương quan với các ý lễ và các biến cố của cuộc sống. Các cử chỉ này tạo nên mối hiệp nhất của cộng đoàn được Thiên Chúa quy tụ.

2) Nghi thức sám hối :

Nghi thức sám hối bao gồm kinh Thú Nhận và kinh Thương Xót. Phần sám hối này không chú trọng vào việc xét mình tỉ mỉ như khi lãnh nhận bí tích thống hối cộng đồng, mà chỉ nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, đặt niềm cậy trông và xin thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng tham dự vào cử hành thánh lễ.

"Sau một chút thinh lặng, tất cả cộng đoàn đọc công thức thú tội chung và vị tư tế đọc lời xá giải để kết thúc. Lời xá giải này không có hiệu quả của bí tích thống hối. Vào ngày Chúa Nhật, nhất là trong mùa Phục sinh, thay vì nghi thức thống hối thường lệ, thỉnh thoảng nên làm phép và rẩy nước thánh để nhớ lại phép Rửa" (QCSLRM 51).

Sau nghi thức sám hối là kinh Thương Xót, trừ khi kinh này đã dùng trong phần sám hối. Phụng vụ ngày nay cũng bỏ kinh Thú Nhận và kinh Thương Xót khi Thánh Lễ đã được khởi đầu bằng một nghi thức phụng vụ, chẳng hạn sau cuộc rước Lễ Lá, sau nghi thức rảy nước thánh, khi kết hợp với một giờ kinh phụng vụ, hay vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, ... hoặc thay bằng những lời kêu cầu Chúa Kitô (x. SLRM trang 566).

3) Kinh Vinh Danh :

Kinh Vinh Danh là một trong những bài hát cổ xưa của Hội Thánh thời kỳ đầu, và hiện nay được hát trong các Chúa Nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay, cũng như trong các lễ trọng, lễ kính và các dịp lễ đặc biệt. Kinh Vinh Danh chỉ cấm vào các Chúa Nhật mùa Vọng và mùa Chay, nhưng khi các lễ trọng và lễ kính trùng vào mùa này thì vẫn hát như thường lệ, đang khi câu tung hô Alleluia bị cấm cả ở những lễ trọng và lễ kính nằm trong mùa Chay ( chỉ đọc câu tiền xướng trước Phúc Âm mà không có câu Alleluia; QCTQ 62).

4) Lời nguyện nhập lễ :

Lời nguyện này có tính lịch sử lâu dài vì ngày xưa khi chưa thành hình nghi thức sám hối và kinh Vinh Danh thì vị chủ tế đã luôn khởi đầu cử hành phụng vụ bằng một lời nguyện để tập họp cộng đoàn và dẫn vào phụng vụ Lời Chúa. Lời nguyện nhập lễ hôm nay được gọi là lời tổng nguyện, diễn tả đặc tính của từng buổi lễ.

Lời tổng nguyện mang đậm nét Ba Ngôi, thường hướng về Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần.

Có ba yếu tố căn bản sau đây :

- Lời mời gọi cầu nguyện : "Chúng ta hãy..."

- Giây phút thinh lặng để hiệp ý với chủ tế.

- Lời nguyện có ba phần : tung hô phẩm tính của Chúa, lời chúc tụng hay tâm tình nài xin, và câu kết dài.

Câu đáp "AMEN" được sử dụng trong phụng vụ thường mang hai ý nghĩa :

- Diễn tả một ước muốn nguyện xin, chấp thuận và tán thành một lời cầu nguyện hay một việc làm nào đó vừa được thực hiện để nói lên niềm tin tưởng cậy trông hoặc chúc tụng cảm tạ Thiên Chúa đã hoặc sẽ thực hiện điều con người khẩn nài.

- Diễn tả đức tin của tín hữu trước một cử hành vừa được thực hiện, chẳng hạn trước khi rước lễ : Tôi tin thật Chúa Kitô đang hiện diện trong hình bánh thánh và tôi đón rước Chúa ngự vào lòng; hoặc khi kết thúc dấu thánh giá hoặc kinh Tin Kính; và như vậy, Amen có nghĩa là lời tuyên xưng đức tin.

Luật phụng vụ chỉ cho phép chủ tế đọc hoặc chọn đọc một trong các lời tổng nguyện, chứ không được phép phối hợp hay thay đổi lời nguyện đã được Hội Thánh quy định (QCTQ 54 : "trong thánh lễ luôn luôn chỉ đọc một lời nguyện nhập lễ").

III. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Phụng vụ Lời Chúa bắt nguồn từ thực hành của Dân Chúa trong thời Cựu Ước. Chúa Giêsu đã tham dự hoặc đã đọc và giải thích Thánh Kinh tại các hội đường Do Thái (Lc 4,16). Các tông đồ và cộng đoàn tiên khởi cũng đã tham dự các buổi hội họp ở hội đường Do Thái; và rồi hình thành phụng vụ Lời Chúa cho riêng mình theo cách thế của người Do Thái nhưng dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô. Phần Phụng vụ Lời Chúa bắt đầu từ bài đọc Thánh Kinh thứ nhất, và kết thúc khi đọc xong lời nguyện tín hữu.

1) Các bài đọc Thánh Kinh :

Công đồng Vatican II khi canh tân thánh lễ đã nhắm ý hướng: "Mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn nữa, để trong một khoảng thời gian nhất định, dân Chúa sẽ được nghe những phần Kinh Thánh quan trọng" (PV 51). Vì không thể đọc hết các bản văn Thánh Kinh quan trọng trong một năm nên phụng vụ Lời Chúa được chia thành chu kỳ 3 năm A-B-C, còn ngày thường của mùa thường niên được chia thành hai năm chẵn và lẻ (năm I và năm II).

Việc sắp xếp năm A, B hay C của ngày Chúa Nhật không nhất thiết phải theo một chủ đề. Bài đọc một thường rút ra từ Cựu Ước sao cho phù hợp với bài Tin Mừng lễ hôm đó (trừ mùa Phục sinh đọc sách Công Vụ). Bài đọc hai được chọn từ các thư Tân Ước và không nhất thiết phải trùng hợp ý tưởng với bài Tin Mừng. Còn bài đọc ba bao giờ cũng được rút ra từ một trong bốn sách Tin Mừng. Các bài Tin Mừng được chọn để nói lên ý nghĩa của ngày lễ hay mùa phụng vụ, còn trong các Chúa Nhật thường niên thì đọc theo thứ tự.

Việc đọc các bài Thánh Kinh chiếm một chỗ quan trọng trong các buổi cử hành phụng vụ, vì thế cần phải công bố Lời Chúa tại giảng đài, một vị trí mà mọi người đều có thể nhìn thấy. Sang thời Trung Cổ, linh mục đọc sách thánh ở bên trái bàn thờ rồi sang bên phải bàn thờ để đọc bài Tin Mừng, còn bài giảng sẽ được giảng giải ở một chỗ riêng giữa lòng nhà thờ và tách rời khỏi thánh lễ. Trong khi đọc lời nguyện nhập lễ, không nên di chuyển, chỉ đến khi đọc câu kết "Chúng con cầu xin ..." mới đi lên đọc sách thánh.

Bài đọc 1 và 2 không có vị trí nổi bật như bài Tin Mừng nên mọi người ngồi khi nghe đọc hai bài sách thánh này, và việc công bố cũng không trang trọng như bài Tin Mừng. Vì thế không được đề cao hai bài đọc này bằng cách áp dụng những nghi thức dành cho bài Tin Mừng, như bắt mọi người đứng nghe, hoặc một người đọc và một người đứng bên cạnh chờ hát đáp ca, hoặc chú rể đọc thì cô dâu đứng hầu bên cạnh; cũng không được giơ cao sách bài đọc như kiểu rước sách từ chỗ ngồi của người đọc lên giảng đài; hoặc từ một chỗ để sẵn ở cung thánh xuống giảng đài (QCTQ 120); cũng không được chia vai để đọc các bài Thánh Kinh, trừ bài Thương Khó trong Tuần Thánh; cũng không được công bố hai bài sách thánh này ở một giảng đài khác với giảng đài công bố bài Phúc Âm. Thái độ đúng đắn nhất khi nghe các bài sách thánh là im lặng nghe một người thay mặt cộng đoàn công bố, chứ không phải làm cho sinh động như một màn trình diễn.

Mỗi nhà thờ phải có một Giảng đài cố định (tòa Phúc Âm không xê dịch như kiểu một giá sách), khác với bàn thờ và ghế chủ sự, có một vị trí trang trọng để công bố Lời Chúa (chung cho cả ba bài đọc). Để tôn trọng Lời Chúa, giảng đài chỉ dành riêng cho việc công bố Lời Chúa, hát Thánh vịnh đáp ca, công bố Tin Mừng Phục sinh, và xướng các ý nguyện chung (không được sử dụng tòa Phúc Âm để dẫn lễ, tập hát, thông báo,... (QCTQ 309).

Lời dẫn vào các bài đọc tuy không thuộc thành phần của thánh lễ nhưng cũng được phép làm để giúp cộng đoàn hiểu một số ý chính của bài đọc sắp nghe. Tuy nhiên lời dẫn phải vắn tắt, không được phép dài hơn bài đọc, chỉ cần nêu lên một hai ý chính để chuẩn bị người nghe, và tránh kiểu nói huấn dụ như một bài giảng hay bài suy niệm (bài Tin Mừng không cần phải có lời dẫn).

2) Đáp ca :

"Khi nghe các bài sách thánh là Thiên Chúa nói với dân của Người, và đáp lại Thiên Chúa bằng tiếng hát lời kinh" (PV 33). Thánh Vịnh đáp ca là lời đáp trả của con người sau khi nghe Chúa nói qua các bài đọc, vì thế các Thánh Vịnh này đã được Hội Thánh chọn lựa sao cho phù hợp với bài sách thánh vừa đọc. Dùng chính Lời Chúa để thưa lại với Chúa là xứng đáng và vui lòng Chúa nhất. Vì thế không ai được phép thay thế đáp ca bằng một bài hát nào không phải là Thánh Vịnh; và cũng chỉ nên thay thế bằng các Thánh Vịnh mà sách bài đọc đã chọn sẵn để thay đổi.

Cách đọc hay hát Thánh Vịnh đáp ca thông thường là một người hát một số câu rồi cộng đoàn đáp lại bằng một điệp ca ngắn. Người hát sẽ đứng ở toà giảng hay một nơi nào thuận tiện trước công chúng.

3) Lời tung hô trước Phúc Âm :

Alleluia là tiếng Do Thái, có nghĩa là hãy chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa. Nguyên thuỷ, Phụng vụ dùng từ Alleluia để diễn tả đặc tính hân hoan trước khi nghe bài Tin Mừng, trong khi Phó tế rước sách Tin Mừng thì người ta lập lại nhiều lần tiếng Alleluia. Về sau người ta thêm vào một câu ca quy hướng về bài Tin Mừng sắp nghe đọc.

Alleluia được phép đọc hay hát vào các mùa phụng vụ, trừ mùa Chay (QCTQ 62). Bởi thế,các lễ trọng nào rơi vào mùa Chay cũng không được phép đọc hay hát Alleluia (như lễ Thánh Giuse, lễ Truyền Tin: có kinh Vinh Danh nhưng không hát hay đọc Alleluia). Vào mùa Chay, lời tung hô Alleluia được thay thế bằng một tiền xướng Phúc Âm. Vì Alleluia và câu xướng có ý nghĩa đi kèm với cuộc rước sách Phúc Âm, nên cần lập lại nhiều lần câu xướng hoặc chỉ lập lại tiếng Alleluia cho đến khi sách Phúc Âm đã được rước tới giảng đài.

Trong trường hợp chỉ có một bài đọc trước bài Tin Mừng thì "Alleluia hay câu trước Tin Mừng, nếu không hát thì có thể bỏ" (QCTQ 63c). "Ca tiếp liên, ngoài lễ Phục sinh và Hiện Xuống thì được tuỳ ý, và được hát sau Alleluia" (QCTQ 64)

4) Bài Phúc Âm :

Sách Phúc Âm được tôn kính như chính Chúa Kitô, và từ rất sớm, đã hình thành việc rước sách Phúc Âm như là rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem ngày xưa, và chỉ những người có chức thánh mới được quyền công bố Tin Mừng (trừ bài thương khó, ca viên có thể đảm nhận vai người kể và vai phụ). Luật phụng vụ không cho phép cộng đoàn cầm sách theo dõi hoặc cùng đọc với linh mục, cũng không được phép cho giáo dân đọc lại sau khi linh mục đã đọc.

Trước khi công bố Tin Mừng, có lời chúc "Chúa ở cùng anh chị em" để nhấn mạnh chính Chúa đang nói trong thánh lễ, và mọi người ghi dấu thánh giá trên mình. Khi vẽ dấu thánh giá trên trán, chúng ta xin Chúa mở trí để hiểu Lời Chúa; trên miệng để xin Chúa mở miệng chúng ta biết nói lời của Chúa; và trên ngực để xin Chúa mở lòng chúng ta biết yêu mến Lời Chúa. Bởi lẽ chúng ta không thể hiểu Lời Chúa theo thánh ý của Thiên Chúa và đúng như truyền thống của Hội Thánh nếu Chúa không soi sáng. Chúng ta có khuynh hướng hay nói theo ý riêng mình nên dễ làm mất lòng nhau, còn Lời Chúa là lời tốt đẹp, là lời chân thực nên Chúa có uốn nắn thì chúng ta mới nói theo Lời Chúa. Chúng ta không thể làm theo Lời Chúa nếu Lời Chúa không xuất phát từ cõi lòng nên chúng ta phải xin Chúa mở lòng để yêu mến và cất giữ Lời Chúa tận trong trái tim. Việc mọi người hướng nhìn về toà Phúc Âm, việc xông hương, cũng như lời tung hô của người nghe và cử chỉ hôn kính sách Phúc Âm của người đọc đều nói lên những tâm tình tôn kính đó.

5) Bài diễn giảng :

Việc diễn giảng trong cử hành phụng vụ chỉ dành riêng cho những người có chức thánh, dù người đó chủ tế hay giúp lễ, đồng tế hay không đồng tế vẫn có thể giảng trong thánh lễ; không có việc chia sẻ theo nhóm ở trong thánh lễ.

Nội dung của bài giảng là "diễn giải một hoặc các bài đọc Thánh Kinh, hoặc một bản văn khác thuộc phần thường lễ hay phần riêng của thánh lễ ngày đó, đồng thời lưu ý đến mầu nhiệm được kính nhớ, hay nhu cầu riêng biệt của thính giả(QCTQ 65).

Bài giảng là một thành phần của thánh lễ và cần thiết để nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu (QCTQ 65). Đây không phải là phần nhiệm ý nhưng là quy định của Hội Thánh phải diễn giảng trong các ngày Chúa Nhật và lễ buộc khi có đông giáo dân tham dự (QCTQ 66).

Bài Tin Mừng luôn luôn phải công bố ở Toà Phúc Âm, còn bài giảng có thể thực hiện ở ghế chủ sự hay một chỗ khác. Ngày xưa vì cử hành thánh lễ bằng tiếng Latinh nên bài giảng đã bị đưa ra sau thánh lễ và diễn giảng tại toà giảng ở giữa nhà thờ nơi một bục cao.

6) Kinh Tin Kính :

Kinh Tin Kính là lời tuyên xưng đức tin để đáp lại Lời Chúa vừa được loan báo và diễn giải trong các thánh lễ Chúa Nhật và lễ trọng. Lời kinh thuộc ngôi thứ nhất số ít, nhưng lại được cộng đoàn đọc hay hát để nhấn mạnh đức tin đòi hỏi ý thức dấn thân của mỗi người. Kinh Tin Kính thường dùng trong thánh lễ là bản kinh của công đồng Nixê-Côngtăngtinô (Nicée-Constantinople) (tk IV), nhưng vẫn có thể thay thế bằng kinh Tin Kính của các tông đồ, hoặc dùng công thức tuyên xưng đức tin của Bí tích Thánh Tẩy trong đêm Vọng Phục sinh.

7) Lời nguyện tín hữu :

Công đồng Vaticanô II đã tái lập lại lời nguyện chung này trong các thánh lễ Chúa Nhật, lễ trọng và các lễ đặc biệt. Sau phần gợi ý cầu nguyện của chủ tế là phần xướng các ý nguyện do Phó tế (ưu tiên số một) hay một ai đó xướng tại giảng đài hay một nơi nào đó thích hợp, hoặc phân chia cho nhiều người đọc.

Thứ tự những ý nguyện thường là :

- Cho các nhu cầu của Hội Thánh.

- Cho chính quyền và thế giới.

- Cho một hạng người, hay một trường hợp đặc biệt.

- Cho cộng đoàn địa phương (QCTQ 70).

Các ý nguyện khác với lời nguyện, vì ý nguyện chỉ là câu gợi ý cho cộng đoàn cầu nguyện, còn lời nguyện là do chủ tế cầu nguyện nhân danh cộng đoàn. Vì thế, không nên khởi đầu bằng câu "Lạy Chúa", làm thế sẽ lẫn lộn với lời cầu nguyện của chủ tế.

Có thể nêu trực tiếp, chẳng hạn: "Chúng ta hãy cầu nguyện cho..."; hoặc nêu lý do rồi mới mời gọi cầu nguyện: "Thiên Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy cầu nguyện cho... ; Chúng ta chúc tụng Chúa..., xin cho...".

Nói chung mỗi ý nguyện phải ngắn gọn, dễ hiểu và cầu xin một ý thôi. Sau mỗi ý nguyện, cộng đoàn biểu lộ sự đồng tình bằng một câu đáp chung hay cầu nguyện trong thinh lặng (QCTQ 71). Lời nguyện kết của chủ tế là lời xưng hô với Chúa Cha hoặc Chúa Giêsu, (không xưng hô với Đức Mẹ hay các thánh) rồi lời nài xin và câu kết ngắn.

8976    12-02-2011 16:14:03