![]() |
Catherine Leblanc @ Byzance-Photos | Ref:525 |
Sơ Marie-Hélène Robert, một chuyên gia về Công đồng Nicaea, giải thích cho độc giả Aleteia những vấn đề chính mà công đồng đã quyết định cách đây 1.700 năm.
Công đồng đại kết đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội (được tổ chức tại Nicaea năm 325) không phải được triệu tập để giải quyết những vấn đề nhỏ nhặt! Vào thời các tông đồ, Công đồng Giêrusalem (Cv 15) đã phải giải quyết vấn đề mang tính quyết định liên quan đến việc tiếp nhận Kitô hữu từ thế giới bên ngoài Do Thái. Công đồng quyết định rằng những người này không cần phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môsê để trở thành Kitô hữu. Sau đó, nhiều công đồng địa phương đã được triệu tập từ thế kỷ II trở đi để giải quyết các vấn đề về kỷ luật của Giáo Hội hoặc các điểm giáo lý đang được tranh luận.
Một bất đồng nghiêm trọng về giáo lý
Đó là vào năm 325 khi các cuộc bách hại đã kết thúc. Hoàng đế Constantine I đã khôi phục hòa bình về mặt chính trị cho đế quốc. Nhưng ông nghe nói một bất đồng nghiêm trọng về giáo lý giữa giám mục Alexandria và một trong những linh mục của mình, Arius, đã nổ ra vào năm 318. Một công đồng địa phương đã không thể giải quyết được vấn đề này.
Vụ việc ngày càng căng thẳng. Hoàng đế dự định thiết lập hòa bình về mặt tôn giáo. Ông triệu tập một công đồng chung tại Nicaea, nay là Iznik, ở Thổ Nhĩ Kỳ. Công đồng này quy tụ hơn 300 giám mục - phần lớn đến từ đế quốc và 90% trong số họ nói tiếng Hy Lạp - nhưng cũng có cả các phó tế, thần học gia và triết gia, một số người trong số họ không phải là Kitô hữu. Hoàng đế chịu trách nhiệm về mọi mặt hậu cần. Các sắc lệnh phải được công bố và áp dụng trên toàn thế giới có dân cư (oikumene).
20 điều luật mà họ ban hành liên quan đến các vấn đề về kỷ luật liên quan đến các quy chuẩn của Giáo Hội. Ngoài ra còn có vấn đề về một ngày chung để cử hành Lễ Phục Sinh cho các Kitô hữu: tất cả phải tách rời khỏi ngày Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mà một số cộng đồng vẫn tuân theo. Vấn đề về thiên tính của Chúa Con, bị Arius bác bỏ, chiếm phần lớn các cuộc tranh luận.
![]() |
Biểu tượng đại diện cho Công đồng Nicea (325). Văn bản được hiển thị là một phần của Kinh Tin Kính Nicea theo hình thức phụng vụ Hy Lạp. Domaine public |
“Đồng bản thể với Chúa Cha”
Cuộc đối đầu này đặt ra câu hỏi về chính cốt lõi của đức tin Kitô giáo: ơn cứu độ qua Chúa Kitô, Thiên Chúa thật và con người thật. Liệu Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là một thụ tạo của Thiên Chúa, như Arius chủ trương, hay là chính Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể cứu độ? Arius phủ nhận tính vĩnh cửu của Chúa Con, và đặt Người là một thụ tạo phụ thuộc vào Chúa Cha, để không làm lu mờ sự duy nhất và thần tính của Thiên Chúa.
Để diễn tả sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, từ chìa khoá “đồng bản thể” (homoousios trong tiếng Hy Lạp) được dùng để giải thích: từ này không bổ sung bất kỳ nội dung nào cho dữ liệu Kinh Thánh. Tuy nhiên, các từ ousia (bản thể [được dùng để chỉ cái có chung nơi một Thiên Chúa]) và homoousios (đồng bản thể) sẽ gây ra những cuộc tranh luận kéo dài. Ý nghĩa triết học của từ ousia tại Công đồng Nicaea đã tạo ra sự xung đột - chẳng hạn như trong trường hợp của Thánh Basiliô và Grêgôriô thành Nyssa - với việc sử dụng nhiều tranh cãi của từ hypostasis [cái gì có riêng, phân biệt được Cha, Con và Thánh Thần].
Hơn nữa, lạc giáo về Kitô học của Arius bị phản bác tại Công đồng Nicaea đã đặt ra câu hỏi cho quan điểm của Kinh Thánh về con người, và mở ra một lạc giáo tiềm tàng về nhân học.
Thuật ngữ triết học cho các khái niệm thần học
Việc sử dụng các thuật ngữ triết học hoàn toàn không phải là sự phủ nhận hay thay thế ngôn ngữ Kinh Thánh. Hơn nữa, Kinh Tin Kính chủ yếu sử dụng ngôn ngữ Kinh Thánh, chủ yếu được trích từ Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu là Thiên Chúa (Ga 1:1), là ánh sáng (Ga 8:12; 9:1-7), là Thiên Chúa thật (1 Ga 5:20), là Đấng được sinh ra (Ga 1:13), nhờ Người mà muôn vật được tạo thành (Ga 1:3; Cl 1:16 và 1 Cr 8:6).
Kinh Tin Kính cũng sử dụng các công thức giải thích cái ousia chung của Chúa Cha và Chúa Con: thêm vào “được sinh ra”, Kinh Tin Kính thêm “không phải được tạo thành”, để đáp lại các luận đề của Arius. Với cùng ý định đó, Kinh Tin Kính định rõ “ánh sáng bởi ánh sáng” và “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật.”
Bằng cách tiếp thu các thuật ngữ Kinh Thánh và giải thích chúng bằng các thuật ngữ triết học trong sự minh định mang tính đại kết về đức tin, Công đồng đã mở ra một trang mới. Công đồng đã tôn phong sự phong phú của nỗ lực thần học trong việc giải thích Kinh Thánh.
Thẩm quyền của Công đồng
Công đồng Nicaea công nhận thẩm quyền của Giáo Hội, được quy tụ trong một Công đồng đại kết, để xác định nội dung của đức tin Kitô giáo bằng một sự xác định tín điều thể hiện sự tiến bộ trong việc giải thích những gì đã được mặc khải.
Đức tin là một chân lý cần được tin và hiểu. Những quyết định quan trọng liên quan đến đức tin phải được đưa ra trong Công đồng đại kết, với sự tham gia của đại diện đến từ toàn thể nhân loại, chứ không phải theo cách phân chia theo khu vực. Sự căng thẳng giữa địa phương và toàn cầu, giữa chủ nghĩa đại kết thống nhất và quyền tự chủ hợp pháp, vẫn là một vấn đề quan trọng trong và giữa các Giáo hội.
Mặc dù chúng ta đang ở một thời đại khác, chúng ta vẫn cần xem xét quyền tự chủ hợp pháp của chính quyền thế tục và vị trí của Giáo Hội trong xã hội dân sự.
Di sản của Công đồng Nicaea cũng là sự đan xen giữa các quyền lực chính trị và tôn giáo. Điều này có thể thấy rõ qua vai trò của hoàng đế trong việc tổ chức hậu cần cho sự kiện và hệ quả của nó. Trong bối cảnh thời Rôma, sự can thiệp của thế tục vào tôn giáo khá phổ biến. Constantine đã kế thừa điều này.
Mặc dù chúng ta đang ở một thời đại khác, chúng ta vẫn cần xem xét quyền tự chủ hợp pháp của chính quyền thế tục và vị trí của Giáo Hội trong xã hội dân sự. Nhưng chúng ta cũng cần phải lý giải tại sao và bằng cách nào các lĩnh vực chính trị và xã hội thường xuyên áp đặt hình ảnh Chúa Kitô, ngay cả bên ngoài bối cảnh tôn giáo, bằng cách gán cho Người một vai trò bắt nguồn từ giáo lý của Người (một ngôn sứ, một nhà cách mạng). Việc phổ biến Chúa Giêsu như vậy cũng là một cách gián tiếp xóa bỏ bản tính Thiên Chúa của Người.
Di sản của Công đồng
Công đồng Nicaea đã lên án Arius và chính thức hóa sự phân biệt giữa người Do Thái và Kitô hữu. Tuy nhiên, nó cũng đặt nền móng cho việc đối thoại với các nền văn hóa đương đại, đặc biệt là trong một thế giới đa văn hóa và đa tôn giáo.
Công đồng Nicaea được trải nghiệm trong bối cảnh Kitô giáo, nhưng nó vẫn giữ lập trường tôn trọng Do Thái giáo và các tín ngưỡng cổ xưa. Trái với niềm tin phổ biến, Do Thái giáo quan niệm về tính hữu hình của Thiên Chúa theo nhiều cách. Một bài chú giải về Kinh Tin Kính Nicaea cho thấy sự neo giữ của nó trong Giao ước Thứ nhất. Nếu thần học được phát triển trong sự giao thoa giữa đức tin và văn hóa, điều này không phải là không có ý nghĩa đối với việc công bố Tin Mừng trong các bối cảnh mới.
Vào thế kỷ V, tại Rôma, Công đồng Nicaea có thể được đọc lại để biện minh cho sứ mệnh phổ quát của sự hiệp nhất và tính ưu việt của Tông toà Rôma trong mối quan hệ của nó với các tông toà khác. Về phần mình, Đông phương nhấn mạnh rằng Công đồng Nicaea đã tạo điều kiện cho việc phát triển cũng như định hình cấu trúc cho tính công đồng và tính hiệp đoàn để củng cố sự hiệp nhất Kitô giáo.
Sự tiếp nhận kép này có thể được xem xét từ cả hai góc nhìn thượng nguồn và hạ nguồn. Thượng nguồn, thực hành này kế thừa các thực hành mang tính công đồng của thế kỷ II, vốn tìm cách xác định đức tin chung theo các tiêu chí vẫn còn phù hợp để suy tư về sự hiệp nhất của Giáo Hội. Hạ nguồn, Công đồng Nicaea có thể truyền cảm hứng cho nghiên cứu đại kết ngày nay, mặc dù nó cũng là một dấu hiệu của sự mâu thuẫn trong lịch sử giữa Đông và Tây.
Giá trị đại kết
Thật vậy, thẩm quyền của Công đồng Nicaea được công nhận trong đối thoại đại kết, ngay cả khi nó không giải quyết được tất cả các vấn đề giáo lý sẽ phát sinh sau này, bao gồm cả vấn đề Filioque [về thiên tính của Chúa Thánh Thần]. Công đồng đã tìm cách kết hợp sự đa dạng và thống nhất trong các cách tiếp cận văn hóa và thần học đối với đức tin Kitô giáo. Con người của Chúa Giêsu là nền móng, là đá tảng của Giáo Hội và của sự hiệp nhất của các Kitô hữu, những người tuyên xưng Người là Thiên Chúa thật, được sinh ra bởi Thiên Chúa và là con người thật.
Tác giả: Sr. Marie-Hélène Robert – Nguồn: Aleteia (27/2/2025)
Chuyển ngữ: Lm. Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên