Sidebar

Thứ Bảy
04.05.2024

Tông Huấn Gaudete Et Exsultate Của Đức Thánh Cha Phanxicô : Chương 4 - 2

135. Thiên Chúa luôn luôn là sự mới lạ. Ngài không ngừng thúc đẩy chúng ta lại ra đi và đổi chỗ để thoát ra ngoài những gì là quen thuộc, đến những vùng ngoại vi và biên giới. Ngài dẫn chúng ta đến nơi mà nhân loại bị tổn thương nhất, nơi mà con người dưới vẻ bề ngoài của một sự đồng nhất hời hợt, tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa không sợ! Ngài không sợ! Ngài luôn ở trên các kế hoạch của chúng ta và không sợ vùng ngoại vi. Chính Ngài đã trở thành một ngoại vi (x. Ph 2:6-8, Ga 1:14). Vì vậy, nếu chúng ta dám đi đến vùng ngoại vi thì chúng ta sẽ tìm thấy Ngài ở đó; thực sự, Ngài đã có mặt ở đó rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trong trái tim của anh chị em chúng ta, trong xác thịt bị thương tích của họ, trong cuộc sống bị áp bức của họ, trong linh hồn bị làm thành đen tối của họ. Người đã ở đó rồi.

136. Đúng là chúng ta cần mở cửa con tim của mình cho Chúa Giêsu, bởi vỉ Người gõ cửa và gọi (xem Kh 3:20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi, bởi vì không khí ngột ngạt của việc chỉ quy về mình của chúng ta, có thể Chúa Giêsu đã ở trong chúng ta và gõ cửa để chúng ta mở cho Người thoát ra ngoài. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã “đi qua các thành thị và làng mạc, rao giảng và công bố Tin Mừng về Nước Thiên Chúa” (Lc 8:1). Sau khi Phục Sinh, khi các môn đệ đi khắp mọi nơi, Chúa đã đồng hành với các ngài (xem Mc 16:20). Đây là điều xảy ra như là kết quả của cuộc gặp gỡ thực sự.

137. Thói quen thật là quyến rũ đối với chúng ta; nó cho chúng ta biết rằng không có lý do gì để cố gắng thay đổi sự việc, rằng chúng ta không thể làm gì được trước hoàn cảnh này, bởi vì đây là cách mà mọi sự vẫn luôn như thế và chúng ta phải tiếp tục làm như vậy. Nhờ thói quen chúng ta không còn phải đương đầu với sự dữ và “để mọi xảy ra như thường”, hoặc như người nào khác đã quyết định rằng chúng phải như thế. Tuy nhiên, chúng ta hãy để Chúa đến đánh thức chúng ta khỏi cơn mê của mình, để giải phóng chúng ta khỏi tính ù lỳ! Chúng ta hãy đương đầu với thói quen của mình; hãy mở mắt ra, mở tai ra, và trên hết mở lòng mình ra, để chúng ta có thể được kích động bởi những gì xảy ra chung quanh mình và bởi tiếng kêu gọi của Lời Hằng Sống và hiệu quả của Chúa Phục Sinh.

138. Điều này được bắt đầu bằng gương của nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã dấn thân để rao giảng và phục vụ tha nhân một cách trung thành, nhiều khi nguy hiểm đến tính mạng của họ và chắc chắn là phải trả giá bằng hy sinh sự thoải mái của mình. Chừng từ của họ nhắc nhở chúng ta rằng Hội Thánh không cần quá nhiều quan lại và công chức, nhưng cần các nhà truyền giáo được lòng nhiệt thành thông truyền sự sống thật ăn tươi nuốt sống. Các thánh làm chúng ta ngạc nhiên, lúng túng, bởi vì đời sống của các ngài mời gọi chúng ta ra khỏi tình trạng tầm thường bình thản và tê liệt của mình.

139. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn không ngần ngại khi Chúa Thánh Thần đòi hỏi chúng ta tiến lên một bước. Chúng ta hãy xin ơn can đảm tông đồ để chia sẻ Tin Mừng cho người khác và từ bỏ việc cố gằng biến đời sống Kitô hữu của mình thành một viện bảo tàng kỷ niệm. Trong mọi trường hợp, Chúa Thánh Thần có thể làm cho chúng ta chiêm ngắm lịch sử dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Bằng cách này, Hội Thánh thay vì bị ứ đọng, sẽ luôn luôn đón nhận các sự ngạc nhiên của Chúa.

TRONG CỘNG ĐỒNG

140. Thật khó mà chống lại được khuynh hướng thiên về sự dữ cũng như những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ và tính ích kỷ của thế gian nếu chúng ta sống quá cô lập. Cuộc tấn công dụ dỗ chúng ta đến nỗi, nếu quá cô đơn, chúng ta dễ mất ý thức về thực tại và sự sáng suốt bề trong, và chịu thua.

141. Việc thánh hoá là một hành trình trong cộng đồng, được thực thi từng cặp. Một số cộng đồng thánh phản ánh điều này. Trong vài trường hợp, Hội Thánh đã phong thánh cho toàn thể cộng đồng đã sống Tin Mừng một cách anh dũng hoặc dâng lên Thiên Chúa cuộc đời của tất cả các thành viên của họ. Thí dụ, hãy kể đến bảy vị thánh sáng lập của Dòng các Tôi Tớ Đức Mẹ, bảy nữ tu chân phước của Tu viện đầu tiên của dòng Thăm Viếng ở Madrid, các vị tử vì đạo Nhật Bản Thánh Phaolô Miki và đồng bạn, các vị tử vì đạo Hàn Quốc Thánh Anrê Taegon và đồng bạn, hoặc các vị tử vì đạo Nam Mỹ Thánh Roque González, Thánh Alonso Rodríguez và đồng bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại một chứng từ gần đây của các tu sĩ Xitô ở Tibhirine, Algeria, những vị đã chuẩn bị như một cộng đồng để chịu tử vì đạo. Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh cũng vậy, mỗi vợ hay chồng trở thành một phương tiện mà Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hoặc làm việc cùng với người khác chắc chắn là một con đường phát triển tâm linh. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói với một trong các môn đệ của ngài: “Con đang sống với người khác là để được đào luyện và thử thách” [104].

142. Cộng đồng được mời gọi để tạo ra một “không gian thần học trong đó người ta có thể cảm nghiệm sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Phục Sinh” [105]. Cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Lễ nuôi dưỡng tình huynh đệ và biến chúng ta thành một cộng đồng thánh và truyền giáo. Nó làm nảy sinh những kinh nghiệm huyền bí đích thực được sống trong cộng đồng. Đó là trường hợp của Thánh Bênêđictô và Scholastica, hoặc cuộc gặp gỡ tâm linh tuyệt vời mà Thánh Augustine và mẹ ngài, Thánh Monica, đã cùng sống. “Khi gần đến ngày mà mẹ con sẽ từ giã cõi đời này, một ngày mà chỉ mình Ngài biết chứ không phải chúng con, ngày ấy đã xảy ra, bởi việc làm của Ngài, con tin là theo cách sắp đặt huyền nhiệm của Ngài, khi mẹ con và con đứng một mình tựa vào cửa sổ nhìn ra một khu vườn [...] Chúng con tha thiết mở miệng tâm hồn chúng con ra cho những dòng nước siêu nhiên của nguồn suối của Ngài, nguồn suối sự sống trong Ngài [...] Và khi chúng con nói chuyện và khao khát sự khôn ngoan, chúng con chỉ thoáng nắm được một chút sự khôn ngoan ấy trong trí một cách hoàn toàn đột ngột [… ngõ hầu] sự sống đời đời [giống như] trong giây phút trực giác ấy làm cho chúng con luyến tiếc” [106].

143. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như vậy không phải là điều thường gặp nhất mà cũng không phải là điều quan trọng nhất. Cuộc sống chung, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đồng tôn giáo hay bất kỳ nơi nào khác, đều được tạo thành từ những điều nho nhỏ hàng ngày. Điều này đúng với cộng đoàn thánh được hình thành bởi Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, là cộng đồng đã phản ánh một cách gương mẫu vẻ đẹp của sự hiệp thông Ba Ngôi. Nó cũng đúng với cuộc sống mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ và với những người bình thường. 

144. Chúng ta hãy nhớ lại rằng Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ chú ý đến chi tiết.

Chi tiết nhỏ về việc hết rượu trong một bữa tiệc.

Chi tiết nhỏ về một con chiên lạc.

Chi tiết nhỏ về việc chú ý đến người goá phụ dâng cúng hai đồng xu nhỏ.

Chi tiết nhỏ về việc có dầu dự trữ cho đèn, trong trường hợp chàng rể đến chậm.

Chi tiết nhỏ về việc hỏi các môn đệ xem các ông có bao nhiêu ổ bánh.

Chi tiết nhỏ về việc đốt lửa và nướng cá khi Người chờ đợi các môn đệ lúc tinh sương.

145. Cộng đồng giữ gìn những chi tiết nhỏ về tình yêu [107], ở đó các thành viên chăm sóc cho nhau và tạo ra một không gian cởi mở và Phúc Âm hoá, là nơi Chúa Phục Sinh hiện diện, thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Đôi khi, nhờ món quà yêu thương của Chúa, chúng ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm an ủi giữa những chi tiết nho nhỏ này. “Một buổi tối mùa đông tôi đã làm việc phục vụ nhỏ của tôi như thường lệ [...] Đột nhiên, tôi nghe thấy ở xa những âm thanh hài hòa của một nhạc cụ. Sau đó tôi tưởng tượng ra một phòng khách sáng sủa, lóng lánh vàng, đầy những phụ nữ trẻ tuổi trang điểm thanh lịch đang trò chuyện với nhau và trao đổi những lời khen ngợi và những nhận xét khác thuộc về thế gian. Sau đó, ánh mắt của tôi nhìn đến một phụ nữ tàn tật nghèo mà tôi đang giúp đỡ. Thay vì những dòng nhạc xinh đẹp, tôi đôi khi chỉ nghe thấy những lời than van của bà ta [...] Tôi không thể diễn tả được điều gì đã xảy ra trong lòng tôi, điều tôi biết là Chúa đã soi sáng nó bằng những tia sáng chân lý vượt quá sự huy hoàng u ám của những lễ hội trần thế, mà tôi không thể tin được trong hạnh phúc của tôi” [108].

146. Trái ngược với chủ nghĩa tiêu thụ cá nhân đang càng ngày càng có khuynh hướng cô lập chúng ta trong một cuộc tìm kiếm hạnh phúc tách biệt khỏi tha nhân, con đường nên thánh của chúng ta không thể ngừng làm cho chúng ta đồng hoá với ước ao của Chúa Giêsu “xin cho tất cả được nên một, lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17:21).

TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỶ

147. Cuối cùng, mặc dù có vẻ như hiển nhiên, chúng ta phải nhớ rằng sự thánh thiện bao gồm việc thường xuyên mở lòng ra cho sự siêu việt, được thể hiện qua việc cầu nguyện và tôn thờ. Các thánh là những người có tinh thần cầu nguyện và nhu cầu hiệp thông với Thiên Chúa. Các ngài không thể chịu nổi việc bị ngột ngạt trong nội tại đóng kín của thế giới này, giữa những nỗ lực và cam kết của các ngài, các ngài khao khát Chúa, các ngài ra khỏi chính mình trong chúc tụng và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin có sự thánh thiện mà không có cầu nguyện, mặc dù lời cầu nguyện ấy không nhất thiết phải dài dòng hoặc liên quan đến những cảm xúc mãnh liệt.

148. Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta: “Hãy cố gắng luôn ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, dù là thật, hay tưởng tượng, hoặc hiệp nhiệm, theo mức độ mà công việc của con cho phép” [109]. Cuối cùng, lòng ao ước Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn sẽ phải được tỏ lộ trong cuộc sống hàng ngày của mình: “Hãy cố gắng cầu nguyện liên lỷ, mà không bỏ nó giữa các công việc bề ngoài. Cho dù con ăn uống, nói chuyện với người khác, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy luôn luôn ước ao Thiên Chúa và giữ Ngài trong tình quý mến của con tim” [110].

149. Tuy nhiên, để cho điều này có thể xảy ra, cần phải có một ít giây phút dành riêng cho Thiên Chúa, một mỉnh với Ngài. Đối với thánh Têrêxa thành Avila, cầu nguyện là “một tình bằng hữu mật thiết, và thường xuyên ở một mình đơn độc, với Đấng mà chúng ta biết rằng yêu thương chúng ta” [111]. Tôi phải nhấn mạnh rằng điều này đúng không chỉ cho một số ít người đặc quyền, mà còn cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều cần sự im lặng đầy sự hiện diện của Đấng được tôn thờ” [112]. Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là một đáp trả của một con tim mở ra để gặp Thiên Chúa mặt đối mặt, ở đó mọi tiếng nói đều im bặt để lắng nghe tiếng dịu dàng của Chúa vang lên giữa thinh lặng.

150. Trong sự thinh lặng ấy, chúng ta có thể phân biệt, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, con đường nên thánh mà Chúa đang mời gọi chúng ta. Nếu không, tất cả các quyết định của chúng ta chỉ là “các đồ trang trí” thay vì đề cao Tin Mừng trong đời sống chúng ta, sẽ che phủ hoặc làm ngạt thở nó. Đối với mỗi môn đệ, cần thiết phải ở với Thầy, để lắng nghe Người, và luôn luôn học từ Người. Nếu chúng ta không lắng nghe, tất cả những lời của chúng ta sẽ chỉ là những lời nhảm nhí vô dụng.

151. Chúng ta hãy nhớ rằng “chính việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, chịu chết và sống lại, phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nó đã bị đổ vỡ vì những khó nhọc của cuộc đời hoặc bị đánh dấu bởi tội lỗi. Chúng ta không được thuần hoá quyền năng của dung nhan Đức Kitô” [113]. Vì vậy, tôi xin hỏi anh chị em: Có những giây phút nào anh chị em đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, hoặc anh chị em nghỉ ngơi với Người, và anh chị em để cho mình được Người nhìn ngắm không? Anh chị em có để lửa của Người đốt cháy lòng anh chị em không? Nếu anh chị em không để cho Người nhóm lửa tình yêu và sự dịu hiền của Người, anh chị em sẽ không có lửa. Và như thế làm sao anh chị em có thể đốt cháy trái tim của những người khác bằng việc làm nhân chứng và lời nói của anh mình? Nếu, trước dung nhan của Đức Kitô, anh chị em cảm thấy không thể để cho mình được chữa lành và biến đổi, thì hãy bước vào Thánh Tâm của Chúa, vào vết thương của Người, vì đó là toà của Lòng Thương Xót Chúa [114].

152. Tuy nhiên, tôi cầu xin để chúng ta không bao giờ coi sự im lặng trong cầu nguyện là một hình thức trốn chạy và chối bỏ thế giới chung quanh mình. “Người hành hương Nga”, người đã đi bộ trong cầu nguyện liên tục, nói rằng cầu nguyện như vậy đã không tách rời ông ấy khỏi những gì đã xảy ra chung quanh ông. “Mọi người đều tử tế với tôi; như thể tất cả mọi người đều yêu tôi ... Không những tôi đã chỉ cảm thấy [hạnh phúc và an ủi] trong linh hồn, mà toàn thể thế giới bên ngoài đối với tôi dường như cũng đầy quyến rũ và thích thú” [115].

153. Lịch sử cũng không biến mất. Cầu nguyện, chính vì được nuôi dưỡng bằng hồng ân của Thiên Chúa được đổ vào cuộc đời chúng ta, nên phải luôn đầy kỷ niệm. Kỷ niệm về các công trình của Thiên Chúa là nền tảng của kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa muốn đi vào lịch sử, và vì thế lời cầu nguyện của chúng ta được đan kết với những kỷ niệm. Không những chỉ nhớ về Lời được mạc khải của Ngài, mà còn về cuộc sống của chúng ta, cuộc sống của tha nhân, và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội Thánh của Người. Đó chính là trí nhớ biết ơn mà Thánh Ignatiô Loyola đã đề cập đến trong sách Chiêm niệm để đạt đến Tình yêu của ngài [116], khi ngài yêu cầu chúng ta phải lưu ý đến tất cả những ơn phúc mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa. Hãy nhìn đến lịch sử của chính mình khi anh chị em cầu nguyện, và ở đó anh chị em sẽ tìm thấy nhiều thương xót. Đồng thời, điều này cũng giúp anh chị em ý thức nhiều hơn rằng Chúa luôn quan tâm đến mình; Người không bao giờ quên anh chị em. Vì vậy, thật là có lý khi xin Người soi sáng những chi tiết nhỏ nhất của đời mình, vì chúng không thoát khỏi [mắt] Người.

154. Khẩn nguyện là một cách diễn tả của một tâm hồn tin tưởng vào Thiên Chúa và ý thức rằng mình không thể làm được một việc gì. Cuộc sống của dân trung tín của Thiên Chúa được đánh dấu bằng lời khẩn cầu liên tục phát sinh từ tình yêu đầy đức tin và lòng tín thác sâu xa. Chúng ta đừng coi thường lời khẩn nguyện, là điều thường làm dịu lòng chúng ta và giúp chúng ta kiên trì trong hy vọng. Chuyển cầu có giá trị đặc biệt, vì là một hành động tín thác vào Thiên Chúa, đồng thời diễn tả tình yêu đối với người lân cận của mình. Có những người nghĩ, dựa trên linh đạo một chiều, rằng cầu nguyện phải là chiêm niệm thuần tuý về Thiên Chúa, không bị phân tâm, như thể tên tuổi và khuôn mặt của người khác, một cách nào đó, là một sự quấy rầy cần phải tránh. Nhưng thực ra, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ càng vui lỏng Thiên Chúa hơn và hiệu quả hơn cho sự lớn lên của chúng ta trong sự thánh thiện nếu, qua chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành điều răn kép mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Cầu nguyện chuyển cầu là một quyết tâm dấn thân huynh đệ cho tha nhân khi chúng ta có thể bao gồm cuộc sống của người khác, những lo âu sâu xa nhất của họ và những giấc mơ đẹp nhất của họ. Trong số những người quảng đại hiến đời mình để chuyển cầu cho tha nhân, chúng ta có thể mượn lời Thánh Kinh mà nói: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân” (2 Mac 15:14). 

155. Nếu chúng ta thực sự nhận ra rằng Thiên Chúa hiện hữu, thì chúng ta không thể nào không thờ phượng Ngài, đôi khi trong sự im lặng đầy kính phục, hát mừng Ngài bằng những lời chúc tụng hân hoan. Như thế, chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của Chân Phước Charles de Foucauld, người đã nói: “Từ khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài” [117]. Ngay cả trong đời sống của dân lữ hành, có nhiều cử chỉ giản dị của sự phụng thờ thuần khiết, như là “ánh mắt của một người hành hương nhìn chăm chú vào một hình ảnh biểu tượng cho sự dịu hiền và gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm niệm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức nó trong thinh lặng” [118].

156. Việc đọc trong cầu nguyện Lời Chúa, “ngọt ngào hơn mật ong” (Tv 119:103), nhưng là một “thanh gươm hai lưỡi” (Dt 4:12), cho phép chúng ta tạm dừng lại và lắng nghe tiếng của Thầy để Lời Chúa trở nên ngọn đèn soi bước chúng ta và ánh sáng soi đường chúng ta (x. Tv 119:105). Như các giám mục Ấn Độ đã nhắc nhở, “Việc tôn kính Lời Chúa không chỉ đơn thuần là một trong nhiều việc sùng kính, một việc đẹp đẽ nhưng tuỳ nghi chọn lựa. Nó thuộc về con tim và chính căn tính của đời sống Kitô hữu. Lời Chúa có trong chính Miình quyền năng biến đổi đời sống” [119]. 

157. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh Kinh dẫn chúng ta đến Bí Tích Thánh Thể, nơi mà cũng Lời ấy đạt được hiệu quả cao nhất, vì có sự hiện diện thật sự của Đấng là Lời Hằng Sống. Ở đó, Đấng Tuyệt Đối duy nhất nhận được sự thờ phượng vĩ đại nhất mà thế gian này có thể dâng lên Ngài, vì chính Đức Kitô là Đấng tự dâng hiến Mình. Khi chúng ta tiếp nhận Người trong việc Rước Lễ, chúng ta tái lập giao ước của mình với Người và để cho Người thực hiện nhiều hơn nữa công trình biến đổi của Người.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

(còn tiếp)

-------------------

[95] Có một số hình thức bắt nạt, trong khi có vẻ thanh nhã hay tôn trọng và thậm chí rất tâm linh, gây ra thiệt hại lớn cho sự tự trọng của người khác. 

[96] Precautions, 13.

[97] Ibid., 13.

[98] X. Nhật Ký. Lòng Thương Xót trong Linh Hồn tôi, Stockbridge, 2000, t. 139 (300).

[99] TÔMA AQUINÔ, Tổng Lược Thần Học, I-II, q. 70, a. 3.

[100] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 6: AAS 105 (2013), 1221.

[101] Tôi đề nghị cầu nguyện bằng kinh được gán cho Thánh Tôma More: “Lạy Chúa, xin ban cho con trí lĩnh hội, và cả điều để lĩnh hội. Xin cho con thân thể khỏe mạnh, và tính hài hước tốt đẹp cần thiết để giữ sức khỏe đó. Xin cho con một linh hồn đơn sơ biết quý tất cả những gì tốt đẹp, đừng dễ dàng sợ hãi trước mặt sự dữ, nhưng biết tìm cách đặt lại mọi chuyện vào đúng chỗ của nó. Xin cho con một linh hồn không buồn chán, không càu nhàu, thở dài hay than van, cũng không căng thẳng quá độ, vì những điều này ngăn cản một chuyện: Con chính là ‘Con’. Lạy Chúa, xin cho con một trí hài hước tốt đẹp. Xin cho con ơn có thể nói một câu đùa để tìm được chút vui vẻ trong đời, và có thể chia sẻ niềm vui đó với người khác”. (Bản dịch trích trong Conggiao.info).

[102] Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 110: AAS 108 (2016), 354.

[103] Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8 tháng 12, 1975), 80: AAS 68 (1976), 73. Điều đáng lưu ý là bản văn này của Chân Phước Phaolô VI iên kết chặt chẽ niềm vui với dũng cảm (parrhesía). Trong khi than phiền về sự “thiếu niềm vui và hy vọng” như một trở ngại cho viẽc Phúc Âm hoá, ngài đề cao “niềm vui thú vị và an ủi của việc Phúc Âm hoá”, được nối kết với “sự hăng say nội tâm mà không ai hay không gì có thể dập tắt được”. Điều này đảm bảo rằng thế gian không nhận được Tin Mừng từ “những người rao giảng Tin Mừng buồn nản [và] thất vọng”. Trong Năm Thánh 1975, Đức Phaolô đã dành Tông Huấn Gaudete in Domino của ngài cho niềm vui (9 tháng 5, 1975): AAS 67 (1975), 289-322.

[104] Những Đề Phòng - Precautions, 15.

[105] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata (25 tháng 3, 1996), 42: AAS 88 (1996), 416.

[106] Tự Thú, IX, 10, 23-25: PL 32, 773-775.

[107] Tôi đặc biệt nghĩ đến ba từ “làm ơn”, “cám ơn”, và “xin lỗi”. “Những lời đúng nói đúng lúc, hằng ngày bảo vệ và nuôi nấng tình yêu”: Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 133: AAS 108 (2016), 363.

[108] TÊREXA HÀI ĐỒNG GIÊSU, Thảo Bản C, 29 v-30r.

[109] Các mức độ Hoàn Thiện, 2.

[110] ID., Các Lời Khuyên một Tu Sĩ làm sao để Đạt Đến Hoàn Thiện, 9.

[111] Tự Thuật, 8, 5.

[112] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Orientale Lumen (2 tháng 5, 1995), 16: AAS 87 (1995), 762.

[113] Gặp Gỡ các Tham Dự Viên Đại Hội Giáo Hội Ý Đại Lợi Lần Thứ Năm, Florence, (10 tháng 11, 2015): AAS 107 (2015), 1284.

[114] X. BERNARĐÔ CLAIRVAUX, Các bài gảing về sách Nhã Ca (Canticum Canticorum), 61, 3-5: PL 183:1071-1073.

[115] Con Đường của một Lữ Kách - The Way of a Pilgrim, New York, 1965, tt. 17, 105-106.

[116] X. Linh Thao - Spiritual Exercises, 230-237.

[117] Thư gửi Henry de Castries, 14 Tháng 8, 1901.

[118] ĐẠI HỘI THƯỜNG KỲ CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBBÊ, Tài liệu Aparecida (29 tháng 6, 2007), 259.

[119] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Công Giáo ẤN ĐỘ, Tuyên Ngôn Kết Thúc Đại Hội Thường Kỳ lần Thứ Hai Mươi Mốt, 18 tháng 2, 2009, 3.2. Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

1400    18-04-2018