Sidebar

Chúa Nhật

05.05.2024

Hôn Nhân Kitô Giáo Và Sự Đòi Hỏi Của Lời Cam Kết - 2

2. Tân Ước
 
Viễn tượng của Hôn nhân Kitô giáo không đơn thuần chỉ là cuộc giao duyên giữa người nam với người nữ, nhưng là một tình yêu được se kết bởi chính lựa chọn nên một với nhau trong Đấng Tạo Thành của đôi hôn nhân. Mặc cho những đỗ vỡ, như đã bao lần xảy ra khi Dân phản bội Thiên Chúa, thì tự bản chất Người vẫn là Đấng tín trung, Người không bao giờ bội tín vì Người không thể phản bội chính mình.[15]
 
Giáo huấn của Đức Giêsu về một lời cam kết bất khả phân ly đụng chạm đến thực tế hầu như tan vỡ bởi nạn ly dị của ngày hôm nay như thế nào? Phải chăng lời rao giảng của Đức Giêsu có phần không thực tế đang khi có biết bao người phải gánh chịu đau khổ, dằn vặt trong gia đình mà chính họ là người trải nghiệm mỗi ngày? Tân Ước cho thấy tranh luận thú vị giữa Đức Giêsu với những người luật sĩ về vấn đề ly dị. Có thể xem đây là giáo huấn nền tảng của Đức Giêsu cho những suy tư về sự bất khả phân ly của dây hôn phối.
 
Chúng ta gặp phải vấn đề là liệu rằng trước những thực trạng khủng hoảng, bế tắc và tan vỡ của nhiều cuộc hôn nhân có làm chúng ta mất hy vọng về đời sống gia đình, về nền tảng làm nên đời sống gia đình và ơn gọi trở thành những bậc làm cha, mẹ trong những định chế gia đình đúng nghĩa? Đức Giêsu đã nói đến lý tưởng ấy. Có hai thái độ trước giáo huấn của Đức Giêsu. Một đàng cho là Đức Giêsu đã quá lý tưởng cuộc sống lứa đôi vốn “không ai có thể biết trước được”. Vì thế, sự bất khả phân ly của Kitô giáo là một ràng buộc nghiệt ngã. Đàng khác lại cho rằng “không vì con sâu làm rầu nồi canh”, nghĩa là dù trước những thực trạng xem ra không mấy sáng sủa thì hôn nhân vẫn không bị đánh mất ý nghĩa nền tảng vốn có. Bởi vì, lời mời gọi sinh sôi này nở và làm chủ vũ trụ vốn nằm trong ơn gọi làm người mà tự do con người chỉ có thể lựa chọn chứ không có quyền phá huỷ. Lời Đức Giêsu cho phép chúng ta tin tưởng vào giá trị của lời cam kết, bởi đó là sự kết ước không phải chỉ bởi hai ngôi vị nhân loại với nhau, nhưng giữa họ có Đấng làm chủ và gìn giữ đời sống ấy. Truyền thống Kinh thánh gợi lại cho chúng ta lòng trung tín của Thiên Chúa như là nỗ lực gìn giữ mối dây kết ước giữa Người với thụ tạo.
 
Rõ ràng, tuy có sự khác nhau giữa các bản văn của Mátthêu, Máccô và Luca về cùng một vấn đề ly dị, nhưng điều sau cùng mà chúng ta nhận được từ giáo huấn của Đức Giêsu đó là lý tưởng về một cuộc hôn nhân hoàn hảo như là nguyên tắc của lời đáp trả cho bất ai muốn theo Người. Điều này cũng được đọc thấy trong thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô chương 7. Đặc biệt trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, thánh Phaolô đã thấy tương quan giữa đôi vợ chồng trong hôn nhân giống như tương quan thiêng liêng giữa Đức Kitô và Hội thánh. Tiêu chuẩn của thánh Phaolô về hôn nhân còn được thấy lại trong thư thứ nhất của thánh Phêrô tông đồ (1 Pr 3,1-7). Thật ra toàn bộ những tiêu chuẩn hôn nhân này không thể là chuyện có một thiên luật về hôn nhân trói buộc và tước mất tự do của những ai đã vì tình yêu và sự trung tín mà vẫn bị phản bội và gặp thử thách mọi bề. Đúng hơn, đó là một lời mời gọi nên hoàn thiện mỗi ngày trong giáo huấn của Đức Giêsu làm thức tỉnh đối với những ai đã đánh mất sự khả tín vào những lời cam kết của mình. Lời cam kết không phải là sợi dây “thòng lọng” khiến những ai đã vướng vào thì càng thêm dính chặt ở đấy. Trái lại, nếu ngay cả sự khả tín vào chính những gì một người có thể đoan quyết cũng bị phủ định thì người ta thật sự phủ định toàn bộ cuộc sống này.[16]
 
Thế nên, điều khả tín của kẻ có niềm tin là thấy được “thế giới này đang qua đi” (1 Cr 7,31) mà những thực tại của trần gian này chỉ là dấu chỉ cho thực tại vĩnh cửu mai sau. Bởi thế, đối với thánh Augustinô, hôn nhân là một sacramentum theo hai lối. Trước hết, đó là dấu chỉ của sự hiệp nhất giữa Đức Kitô và Hội thánh, sau là lời thề thánh thiêng giữa đôi vợ chồng, là sợi dây chung thuỷ ràng buộc hai người cho đến chết. Sacramentum như dấu ấn ghi vào linh hồn của hai vợ chồng và hằng luôn liên kết họ. Thế nên, chính nhờ sự hiệp nhất vĩnh viễn này nơi họ mà hôn nhân trở thành biểu tượng phản ánh sự hiệp nhất của Đức Kitô với Hội thánh. Bởi thế, hôn nhân Kitô giáo cũng như các bí tích khác là một sacramentum tức là một dấu chỉ thánh thiêng và một sacramentum et res tức là một thực tại bí tích và một ân sủng đích thực được ban qua nghi thức ấy.[17]
 
Tóm lại, sứ điệp mà Tân Ước gửi đến chúng ta về vấn đề hôn nhân có thể được hiểu qua hai điều sau đây. Trước hết, việc diễn tả mối tương quan và kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh Người cho thấy chiều kích thần học sâu xa của hôn nhân. Bởi thế, hôn nhân phải làm sao diễn tả như lòng mến giữa Đức Kitô và Hội thánh không bao giờ phai nhạt. Điều này hàm chứa sự yêu thương, trung tín, dấn thân cho nhau của đôi vợ chồng. Như vậy, không phải là hôn nhân trở nên kiểu mẫu làm chuẩn mực cho Hội thánh, nhưng chính tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh, nhất là qua cái chết của Người trên thập giá, diễn tả và thực tại hoá lý tưởng của hôn nhân. Hơn thế nữa, qua ấn tích vĩnh viễn của bí tích Thánh Tẩy, đôi hôn nhân được thông phần ơn cứu độ mà Đức Kitô ban cho Hội thánh, làm hoàn trọn bí tích Hôn phối mà họ lãnh nhận như việc thể hiện tình yêu nên một trong nhau và trong chính Đấng đã chết và sống lại vì họ.
 
Một vấn đề khác của sứ điệp Tân Ước đó là sự bất khả phân ly của dây hôn phối và qui định lề luật. Chúng ta thường đồng hoá lời cam kết hôn nhân với lề luật cấm không được ly dị mà Tin mừng theo thánh Mátthêu chương 19,1-9 nói đến. Lệnh truyền của Đức Giêsu về sự bất khả phân ly trong hôn nhân thường được xem là lời dạy mang tính “chung cuộc” của một giới luật hơn là đích điểm hay lý tưởng phải đạt đến. Tuy nhiên, vượt qua những cấm đoán mang tính luật lệ ấy, việc cấm ly dị của Đức Giêsu cho thấy một trật tự sáng tạo trong ý định của Thiên Chúa. Không có giới luật nào phát xuất từ bí tích nhưng là chính lý tưởng hôn nhân tự đặt cho mình sự bất khả phân ly theo đúng công trình tạo dựng ban đầu của Đấng Tạo Hoá. Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn cho thấy, vì lòng người ta ra chai đá mà ý nghĩa nền tảng của hôn nhân bị lu mờ trước những thực trạng “trượt dốc” của họ. Thật ra không thể có hôn nhân nếu không có tình yêu là nền tảng liên kết người nam và người nữ. Trong tình yêu ấy, người ta không tìm thấy kẻ trên người dưới, không có chuyện bên trọng bên khinh bởi lẽ đã có một mối tương quan thật sự, nền tảng và vững bền giữa hai ngôi vị. Mối tương quan liên vị này được nhìn nhận và bảo đảm giữa hai người phối ngẫu, trong ý định sáng tạo của Thiên Chúa nên chẳng bao giờ là chuyện đòi hỏi của lề luật cả.
 
III. TÌM LẠI Ý NGHĨA CỦA HÔN NHÂN KITÔ GIÁO HIỆN NAY
 
Thật ra, không phải chỉ Hôn nhân Kitô giáo mới cần tìm một hướng giải quyết về mặt ý nghĩa, nhưng cần hiểu hôn nhân trên tầm mức rộng hơn. Việc Đức Giêsu trích dẫn sách Sáng thế về cuộc sáng tạo và sự ra đời của gia đình đầu tiên có thể được hiểu như là lý tưởng chung của hôn nhân đối với bất kỳ ai lựa chọn cho mình “một lối sống mới” (họ không còn là hai nhưng là một xương một thịt với nhau). Chúng ta có thể đọc thấy những chuyển biến tích cực mà Công đồng Vaticanô II nhìn về hôn nhân như việc tìm lại ý nghĩa của đời sống vợ chồng đối với những ai quý trọng và muốn bảo vệ giá trị bất khả phân ly này nơi bí tích hôn nhân.
 
1. Công đồng Vaticanô II
 
Trong hiến chế Gaudium et Spes bên cạnh việc tái khẳng định bản chất của bí tích hôn nhân và tình yêu vợ chồng là tự bản chất hướng đến việc sinh sản và giáo dục con cái,[18] công đồng cũng nhấn mạnh rằng tình yêu vợ chồng không những là đặc điểm riêng nơi con người mà còn đem lại sự thiện hảo cho con người toàn diện. Tình yêu này được diễn tả và hoàn thiện qua việc vợ chồng vì quan hệ giới tính biểu lộ và nâng cao sự tự hiến của hai người, nhờ thế họ làm cho đời sống của nhau nên phong phú.[19] Bởi thế, bí tích hôn nhân trong Kitô giáo củng cố và hiến thánh các đôi hôn phối trong nhiệm vụ và phẩm giá của họ. Bí tích ấy là bí tích của sự nên một trong tình yêu, trong sự sinh sản con cái hầu để tinh thần Chúa Kitô được thấm đượm và nối kết họ trong mối dây liên kết vốn bất khả phân ly trong chính bí tích mà họ cử hành, bí tích diễn tả mối tình thiêng liêng cao đẹp Đức Kitô dành cho Hội thánh Người. Thế nên, vì sự hiệp nhất và trao hiến trọn vẹn cho nhau trong tình yêu và hạnh phúc của con cái mà đôi vợ chồng phải vẹn nghĩa thuỷ chung với nhau, nghĩa là một sự hiệp nhất bất khả phân ly.[20]
 
2. Những suy tư khác
 
Một điều đáng suy nghĩ đó là thực trạng đổ vỡ đời sống hôn nhân hôm nay không loại trừ những người đã sống đời hôn nhân như một bí tích. Đáng nghĩ hơn nữa khi chính những người Công giáo trong tình trạng ly thân này lại muốn được tái hôn theo luật đời. Có lẽ một lối thực hành nặng tính lề luật khi chỉ xem sự bất khả phân ly như một luật cấm khiến cho việc lãnh nhận và sống bí tích hôn nhân không đạt đến được mức độ trưởng thành và cắm rễ sâu nơi chính nội tâm của mỗi Kitô hữu. Bên cạnh đó, cùng với những trào lưu hiện sinh và tương đối, người Kitô hữu dễ bị cuốn trôi khỏi nền tảng thiêng liêng mà đời sống họ đã không có cơ hội được cảm nếm vì những rào cản mang tính luân lý và lề luật. Việc giải quyết các nố hôn nhân bởi thế trước hết là sự cố gắng chữa lành những thương tích mà đời sống bất toàn, không như ý muốn đã để lại trên ký ức và chính cuộc sống hiện tại của các đôi vợ chồng. Người ta có thể nghĩ đến đặc ân của thánh Phaolô như phương cách cuối cùng đối với những trường hợp bất khả kháng.
 
Thế nên, trước hoàn cảnh sống mới, một đòi hỏi nền tảng hơn cho đời sống Kitô hữu chính là việc thực hành đức tin của mình. Luật dân sự đã đạt được điều mà những người không có đức tin đòi hỏi: đó là sự đề cao tự do cá nhân bằng việc chấp thuận và nhìn nhận ly dị. Tuy nhiên, hơn lúc nào hết, một chứng từ cần thiết và công khai của mọi tín hữu là việc tái khẳng định phẩm giá và giá trị bất khả chuyển nhượng của gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân giữa một người nam và người nữ, cũng như sự khai mở sự sống và bảo vệ sự sống ở môi trường gia đình trong mọi giai đoạn phát triển của chính sự sống ấy.[21] Phải trả lời ra sao cho câu hỏi mà thời đại hôm nay đặt ra: đâu là sự thánh thiêng mà đời sống hôn nhân là cửa ngõ dẫn vào đang khi có biết bao khủng hoảng về chính điều mà ta gọi là sự thánh thiêng ấy?
 
Trải qua thời Trung cổ, đến thời cải cách của công đồng Trentô và vẫn đang tiến triển cho đến nay, hôn nhân luôn là một bí tích theo nghĩa rộng. Ta không thể nói việc cử hành nghi thức hôn phối chỉ như là một thủ tục kết hôn không hơn không kém. Trái lại, xét cho đến tận căn, đó là cuộc cử hành các giá trị thánh thiêng của hôn nhân, bất kể mọi cách hiểu trong những nền văn hoá đặc thù. Bởi lẽ, đó là cuộc cử hành nghi lễ để gia nhập vào một đời sống mới. Đặc biệt, chính trong môi trường Kitô giáo mà cuộc cử hành mang tính bí tích ấy đưa người nam và người nữ bước vào một lối sống mới được đặt nền trên mối tương quan khuôn mẫu là Đức Kitô và Hội thánh.[22] Thế nên, việc sống bí tích hôn nhân của các đôi vợ chồng Kitô hữu không những là việc sống thực tại thánh thiêng trong ý định Đấng Sáng Tạo, mà họ còn cùng nhau cảm nghiệm thế nào là tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội thánh, một tình yêu không phủ lấp mọi thực tại lữ hành khác của trần thế nhưng lại được thể hiện bằng chính sự đồng hành, liên luỵ, nên một và mang lấy gánh nặng cho nhau trong mỗi biến cố cuộc đời.[23]
 
------------------
[1] Hội đồng Tòa thánh về Gia đình, Giáo lý cho cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI – Đề tài 2: Gia đình, Nhà giáo dục sự thật về con người: Hôn nhân và Gia đình, số 1 (Mexico, D.F.,16-18/01/2009). 
 
[2] Joseph Mortos, Doors to the Sacred (USA: Liguori/Triumph, 1991), tr. 344-387. 
 
[3] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư mục vụ 2008 về Môi trường Giáo dục Gia đình Công giáo, phần II, số 10. 
 
[4] Familiaris Consortio (FC), số 6. 
 
[5] FC, số 7
[6] Xc. Thời sự Thần học, số 9, tháng 09/1997, tr. 7-65. Cũng xem Phan Tấn Thành, Thần học về Hôn nhân và Gia đình. Truy cập ngày 02/03/2009; http://www.daminhvn.net 
 
[7] Joseph Mortos, op.cit., tr. 344-387. 
 
[8] Ibid., tr. 344-387. 
 
[9] Chúng ta đang ở trong các hoàn cảnh quá khích. Đó như thể chúng ta muốn phát minh lại con người, hôn nhân…với những kết quả “phi nhân” (in-humains). Chẳng hạn, kế hoạch bãi bỏ giới tính, nơi mà hẳn sẽ không có căn tính giới tính xác định, nhưng là nơi mỗi người có thể xây dụng cuộc sống của mình tùy theo ước muốn nam tính, nữ tính riêng của mình hay cái gì đó khả biến hơn. Điều này là không thể chấp nhận được, trái với bản tính của con người. Một tiến trình “tan rã” chẳng hạn có thể là việc đề nghị bãi bỏ mẫu tính, đồng hóa nó với một hành vi nô lệ. Phụ nữ là nô lệ của mẫu tính, và đó là lý do mà người ta đã tìm ra cách thế làm sinh ra những đứa trẻ một cách khác, theo cách nhân tạo hơn. Đó là kiểu đề nghị thực sự nguy hiểm, “phi nhân”. Tôi tin vào lương tri của con người và bản năng của họ : vào ước muốn giới tính đối lập mà Thiên Chúa đã gieo vào trong con người, và vào ước muốn làm mẹ và làm cha, là những giá trị mà Thiên Chúa đã đặt trong tâm hồn con người. Nhưng tôi nghĩ rằng những đề nghị này có thể tạo nên nhiều thiệt hại, như đó đã là trường hợp đối với chủ nghĩa mác-xít. Chủ nghĩa mác-xít đã được thừa nhận như là môt sự dữ to lớn cho xã hội, đã tạo ra nhiều nạn nhân. Cũng thế, cuộc tiến hóa này (sự tiến hóa của giống), ngay cả trước khi được thừa nhận như là “phi nhân”, sẽ có thời gian gây ra những thiệt hại ghê gớm. 
 
[10] Nhưng công trình giáo dục này xem ra bị cản trở bởi một quan niệm giả trá về tự do, trong đó sự bốc đồng và những xung năng chủ quan của cá nhân được người ta tôn vinh đến mức nhốt kín con người trong ngục tù của bản ngã mình. Tự do đích thực của con người xuất phát từ chỗ con người đã được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, và do đó tự do ấy phải được thực thi với trách nhiệm, luôn chọn điều thiện chân thực, để nó trở nên tình yêu, sự tự hiến. Với mục đích đó, điều cần thiết không phải là lí thuyết nhưng là sự gần gũi và yêu thương, đặc trưng của cộng đoàn gia đình. Chính trong tổ ấm gia đình mà người ta thật sự học sống, học biết quí trọng sự sống và sức khỏe, tự do và hòa bình, công lí và sự thật, lao động, sự hòa thuận và kính trọng nhau. (Thông điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI Kết thúc cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI tại Mêhicô, số 3). 
 
[11] Xc. Thời sự Thần học, số 32, tháng 06/2003, tr. 7-90. 
 
[12] Wenham, Gordon J., Word Biblical Commentary, Volume 1: Genesis 1-15, (Dallas, Texas: Word Books, Publisher, 1998). Cũng xem GLHTCG, số 1609-1611. 
 
[13] Ibid. 
 
[14] Các bản văn của Ez 16, Hs 1-3, sách Diễm Ca, sách Tôbia 6-8 đều diễn tả quan hệ giữa Israel và Giavê như một cuộc hôn nhân. Trong đó, Israel như người vợ trắc nết, bất trung, hết lần này đến lần khác đã phản bội chồng mình mà chạy theo người tình khác là các thần ngoại. Song song đó, việc đề cao và ca tụng những cuộc hôn nhân hoàn hảo trong đó người đàn ông hoàn toàn gắn bó với vợ mình trong tình yêu. Xem thêm Joseph Mortos, op.cit., tr. 344-387. 
 
[15] Linh mục Jude Siciliano, OP, trong bài suy niệm Lời Chúa vào Chúa Nhật 27 Thường niên B (VietCatholic News 02/10/2003) đã diễn tả điều này như sau: “Trong bài Phúc âm Chúa Giêsu nhắc lại truyền thống nhiệm màu của Kinh Thánh mà tuyên bố mối ràng buộc hôn nhân là không tháo gỡ được. Nó là dấu chỉ hữu hình tình yêu vô hình và hiệu quả của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài khẳng định tính bền vững của hôn nhân. Nó có ý nghĩa vượt xa sự kết hiệp giới tính. Nó không phải chỉ liên quan đến thân xác mà còn bao hàm toàn thể nhân sinh. Đôi vợ chồng là một về xác thịt và cũng là một về hiện hữu (une seule chair, un seul être). Vì thế, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình. Rõ ràng ông Adam không có cha mẹ để lìa bỏ. Lời tuyên bố của Sách Thánh nhắm đến toàn thể nhân loại. Tác giả muốn gọi sự kết hợp này là thuộc về “trái tim”, phát xuất từ trái tim, nơi thẳm sâu nhất của tồn tại con người. Hôn nhân, do đó, là sự dấn thân của hai trái tim giống như tình yêu trung tín (hesed) của Đức Chúa Trời. Lòng thương yêu này vượt trên cả tội lỗi và nết xấu của mỗi người. Tức là trung tín trong bất cứ tình huống nào. Vì Thiên Chúa không thể bất trung với chính Ngài. Lời thề trong lễ hôn phối của đôi vợ chồng mới là: “giữ lòng chung thuỷ khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ” vang vọng tình yêu hesed của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta phải đáp trả cho cân xứng. Nghĩa là trung tín với Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào, thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, khoẻ mạnh cũng như khi yếu đau. Đừng bao giờ lãng quên giao ước giữa ta với Đức Chúa Trời. Xem thêm Dives in Misericordia (Encyclical on the Mercy of God His Holiness Pope John Paul II, November 30, 1980). 
 
[16] Joseph Mortos, op.cit., tr. 344-387. Cũng xem Freedman, David Noel, ed., The Anchor Bible Dictionary (New York: Doubleday 1997, 1992), “Divorce”; GLHTCG, số 1612-1617. 
 
[17] Joseph Mortos, op.cit., tr. 368-369. 
 
[18] Gaudium et Spes (GS), số 8. 
 
[19] GS, số 49. 
 
[20] Lumen Gentium, số 11. Xem thêm Hội đồng Tòa thánh về Gia đình, Giáo lý cho cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI – Đề tài 4: Gia đình, người thông truyền các đức tính và giá trị con người, số 1 (Mexico, D.F.,16-18/01/2009) : Gia đình, khai sinh từ sự hiệp thông trong đời sống thân mật và tình yêu vợ chồng vốn được đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, là nơi khởi đầu cho các quan hệ liên vị; gia đình là nền tảng của đời sống con người và là nguyên mẫu của mọi tổ chức xã hội. Chiếc nôi sự sống và tình yêu này là nơi xứng hợp cho con người sinh ra và lớn lên, đón nhận những khái niệm đầu tiên về sự thật và sự thiện, nơi con người học yêu và được yêu, và học biết nhân vị nghĩa là gì. Gia đình là cộng đồng tự nhiên trong đó người ta có được những kinh nghiệm đầu tiên và thực hành đầu tiên về xã hội loài người, bởi lẽ đó không chỉ là nơi con người khám phá tương quan liên vị giữa cái “tôi” và “bạn” mà còn mở đường ra cho cái “chúng ta” nữa. Người nam và người nữ hiến thân cho nhau trong hôn nhân tạo nên một môi sinh cho đứa bé có thể phát triển những tiềm năng của nó, ý thức phẩm giá của nó, giúp nó chuẩn bị để sẵn sàng đối diện với định mệnh của nó, một định mệnh độc nhất vô nhị. Trong môi sinh đầy ắp tình cảm tự nhiên đó liên kết các thành viên gia đình lại với nhau, mỗi con người với sự độc đáo của mình phải được nhìn nhận và nhận lấy trách nhiệm. 
 
[21] Thông điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI Kết thúc cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI tại Mêhicô, số 4. 
 
[22] Joseph Mortos, op.cit., tr. 386-387. 
 
[23] GLHTCG, số 1638-1654.
Tác giả: Gioan Phê Ny Ngân Giang, OP.
Nguồn: http://catechesis.net
659    02-07-2018