Sidebar

Thứ Sáu
17.05.2024

Nghiên cứu khoa học khẳng định không có cái gọi là "gien đồng tính"

Sau khi một nghiên cứu khoa học lớn đã phát hiện rằng không có một dấu chỉ mang tính gien nào qui định đồng phái, thì một nhà thần học người Công Giáo đã giải thích rằng những phát hiện hoàn toàn phù hợp với giáo huấn Công Giáo.

Cuộc nghiên cứu được công bố vào ngày 30/8 trên tạp chí Science. Công trình giải thích dữ liệu từ nhiều ngân hàng dữ liệu gien lớn ở nhiều nước, và đã nghiên cứu gần 1 triệu người về các bạn tình và sở thích tình dục của họ. Các nghiên cứu trước về vấn đề chỉ xem xét cùng các nhóm hàng trăm người.

“Từ quan điểm về gien, không có dù một [sự khác biệt về gien] nào từ các hành vi tình dục khác phái so với đồng phái”, Andrea Ganna, một nhà nghiên cứu gien tại Viện Y Học Phân Tử Phần Lan, và là tác giả đứng đầu của cuộc nghiên cứu.

Trao đổi với nhà khoa học Mỹ, Eric Vilain, một nhà nghiên cứu gien tại Hệ Thống Sức Khoẻ Nhi Quốc Gia tại Washington, đã gọi kết quả của cuộc nghiên cứu là “sự kết thúc của lý thuyết ‘gien đồng tính’”.

Trong các thập kỷ gần đây, nhiều trong số những người tham gia vào phong trào LGBT đã cổ võ cho luận điều là khuynh hướng tính dục được quyết định bởi gien, và rằn những người đã kinh nghiệm sự hấp dẫn đồng phái được sinh ra với một khuynh hướng cố định.

Trong một cuộc phỏng vấn tháng 6, Cha James Martin S.J., tác giả cuốn sách “Building a Bridge: How the Catholic Church and the LGBT Community Can Enter into a Relationship of Respect, Compassion, and Sensitivity”, đã nói rằng “các nhà tâm lý học, tâm lý học trị liệu, sinh học và khoa học nổi tiếng nhất đã nói rằng người ta chỉ đơn giản là được sinh ra theo cách này”.

Trong một nhận định được đăng cùng với cuộc nghiên cứu, nhà nghiên cứu gien Đại Học Oxford là Melinda Mills đã nhấn mạnh “một khuynh hướng giảm tình dục thành một kiểu thuyết định mệnh về gien” để cổ võ cho những lập trường mang tính xã hội học hay ý thức hệ.

“Gán khuynh hướng đồng tính cho các loại gien có thể làm gia tăng các quyền dân sự hay giảm thiểu sự kỳ thị”, bà viết. “Ngược lại, có những sự sợ hãi là nó mang lại một công cụ cho sự can thiệp hay ‘việc chữa trị’”.

Tuy nhiên, bà Mill nói rằng các kết quả của cuộc nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng các loại gien để dự báo về sự hấp dẫn đồng tính, hay để thay đổi điều này qua một vài kiểu điều chỉnh gien, là “hoàn toàn và nhất định là không thể”.

Nhận định về bản báo cáo vào Thứ Sáu, Cha Martin nói với CNA rằng “cuộc nghiên cứu cho thấy rằng nhiều yếu tố, gồm cả các yếu tố gien, đang ảnh hưởng lên tính dục con người”.

“Đối với tôi, câu trích dẫn hữu ích nhất xuất phát từ một nhà nghiên cứu gien là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu, là người đã nói về tình dục ‘tự nhiên’ là thế nào”, Cha Martin nói, khi trích lời của Tiến Sĩ Benjamin Neale thuộc MIT.

Tiến Sĩ Neale nói với the New York Times là hành vi đồng tính “được viết vào trong các gien của chúng ta và đó là một phần của môi trường của chúng ta….đó là một phần của các chủng loại của chúng ta và đó là một phần con người chúng ta là”.

“Điều đó dường như tóm gọn lại các kết quả của cuộc nghiên cứu cách chính xác”, Cha Martin nói.

Cuộc nghiên cứu cho thấy có năm điểm dữ liệu về gien vốn cho thấy phổ biến nơi các cá nhân là những người đã báo cáo ít nhất một lần có cuộc gặp gỡ đồng phái. Hai trong những dấu chỉ này có vẻ có liên hệ đến các hormones và mùi, các yếu tố trong sự hấp dẫn tình dục.

Nhưng 5 dấu hiệu cùng giải thích rằng có ít hơn 1% những khác biệt trong hoạt động tình dục nơi người dân, kết quả cho thấy.

“Mặc dù người ta không tìm thấy một vị trí gien cụ thể có liên hệ với hành vi đồng tính”, bà Mills nói, “khi người ta pha trộn các tác động của những điểm vị trí này với một điểm mấu chốt có thể hiểu được, thì các tác động là quá nhỏ, dưới 1%, là điểm then chốt về gien không thể một cách nào đó được sử dụng để dự báo về hành vi đồng tính của một cá nhân”.

Khi nhấn mạnh rằng các kết quả nghiên cứu nhấn mạnh những khác biệt đáng xem xét bởi thế hệ và sự ảnh hưởng của các qui chuẩn văn hoá về hành vi tình dục, bà Mills kết luận rằng nghiên cứu tương lai sẽ tập trung tốt nhất vào “các khuynh hướng gien sẽ được xuất hiện thế nào bởi các yếu tố mang tính môi trường”.

“Một lần nữa cũng thật quan trọng là chúng ta nghe kinh nghiệm sống động của người trong giới LGBT, khi chúng tôi làm mục vụ cho họ trong Giáo Hội”, Cha Martin nói.

Tiến Sĩ Kevin Miller, giáo sư trợ giảng về thần học tại Đại Học Dòng Phanxicô tại Steubenville, Ohio, đã cho CNA biết rằng các kết quả là phù hợp với giáo huấn hiện hành của Giáo Hội về đồng tính.

“Giáo Lý nói về đồng tính trong các số 2357-2359. Trước phần đề cập này chúng ta đã đọc thấy rằng ‘yếu tố gien tâm lý vẫn chưa được giải thích hoàn toàn’. Nghiên cứu mới sẽ không thay đổi điều này”.

Cuộc nghiên cứu đưa ra sự khác biệt giữa người tham gia vào các hoạt động đồng tính và những người xác định là “đồng tính” hay “đồng phái”, một sự cách biệt mà tiến sĩ Miller nhấn mạnh đã mang tính trọng tâm đối với các giáo huấn của Giáo Hội.

Giáo Lý dạy rằng các hoạt động đồng tính “là bị rối loạn về mặt bản năng” và “những hoạt động này không thể chấp nhận được dưới mọi hoàn cảnh”. Điều này là vì, tiến sĩ Miller cho biết, chỉ các hoạt động tình dục được định hướng bởi bản chất tự nhiên của nó trước khả năng sinh sản và đặt trong bối cảnh hôn nhân mới “phù hợp với đức tính khiết tịnh và – như Thánh Gioan Phaolô II nhấn mạnh trong cả các bài viết tiền thời kỳ giáo hoàng và trong thời kỳ giáo hoàng – tình yêu”.

“Bất cứ các hành vi khác – độc lập khỏi những qui chuẩn mang tính chủ quan của những người tham gia vào các hoạt động tình dục – thì một cách khách quan là mang tính thoả mãn dục vọng và ích kỷ, hơn là yêu thương chân thành. Rõ ràng có nhiều loại hoạt động tình dục có thể rơi vào loại này – các hành vi đồng tính chẳng cách nào khác là thuộc loại này”.

Khuynh hướng hay xu hướng đồng tính, thường được gọi là hấp dẫn tình dục đồng phái, được Giáo Lý xác định là “bị rối cách khách quan”, tiến sĩ Miller nói. Điều này là vì một lòng khao khát mà, nếu hành động, có thể dẫn đến những hành vi trái luân lý bởi tự bản chất của nó là rối, ông nói.

Nhưng, ông Miller nhấn mạnh, lòng khao khát hay tự bản thân khuynh hướng thì “không sai về mặt luân lý”, vì một người không chọn lựa để mang lấy khuynh hướng hay thực thi một ý muốn tự do để có khuynh hướng này.

Trung tâm cho sự hiểu biết về sự cách biệt giữa các khuynh hướng và hành vi tính dục, tiến sĩ Miller nói, là tất cả các hành vi tình dục được chọn lựa cách tự do; ngay cả khi một người có một khuynh hướng nội tại đối với việc tham gia vào các hoạt động tình dục, thì họ có cùng một sự tự do để theo đuổi các hoạt động này hay không trong vai trò là một con người có khuynh hướng đối với các hành vi vô luân với ai đó thuộc phái tính khác.

“Người ta có thể thấy rằng trong việc giải thích này về giáo huấn của Giáo Hội, thì không có một sự tham chiếu thuộc bất cứ kiểu nào với căn nguyên của khuynh hướng tình dục. Đây chỉ đơn giản là không phù hợp với sự phân tích về sự tốt lành về luân lý hay sự dữ của các hành vi tình dục đồng tính, và cuả một tính cách hay một khuynh hướng đồng tính có trật tự hay bị rối”.

Tiến Sĩ Miller giải thích rằng nguồn gốc của khuynh hướng tính dục của một người, bất luận là mang tính sinh học, môi trường, hay trải nghiệm, thì không hoà hợp với điều mà Giáo Hội dạy về luân lý của hành vi dựa trên một xung năng tình dục cụ thể.

“Những giáo huấn này không tuỳ thuộc vào bất cứ một giả định nào có liên quan đến căn nguyên của khuynh hướng hay xu hướng”, tiến sĩ nói.

“Ngay cả khi người ta có thể chứng minh là một khuynh hướng tình dục hay xu hướng được quyết định bởi yếu tố sinh học, thì điều này cũng không ảnh hưởng đến luận lý hàm chứa trong giáo huấn của Giáo Hội một chút nào”.

Đan Sĩ (CNA)

457    04-09-2019