Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Hạnh Thánh Tháng 5_phần 3

Ngày 26 tháng 5 
THÁNH PHI-LIP-PHÊ NÊ-RI 
Linh mục

Gương thánh nhân: Thánh Phi-lip-phê Nê-ri sinh tại Phô-răng, nước Ý, năm 1515. Mẹ mất sớm, thánh nhân được người dì thương yêu dạy dỗ. Và sau đó, một cha dòng Đa-minh nhận lãnh giáo huấn. Nên ngay từ nhỏ, ngài đã hấp thụ được một đức tin mạnh mẽ và một lòng đạo đức sâu xa. Tính tình ngài rất phóng khoáng, vui tươi; mọi người đều quí mến.

Ngài có người cậu không có con nối dòng, muốn đem ngài về nuôi và cho thừa hưởng gia tài. Nhưng ngài từ chối vì thầy mình không có ơn gọi sống ngoài đời. Ngài muốn hiến dâng đời mình cho Chúa, phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn. Ngài đi Rô-ma và xin vào chủng viện. Hằng ngày lo trau dồi trí tuệ, học môn thần học và tu đức. Sống khó nghèo, chay tịnh và cầu nguyện trong âm thầm cô tịch.

Năm lên 37 tuổi, thánh nhân chịu chức linh mục. Và từ đó, ngài tận tình hiến thân phục vụ các linh hồn. Đặc biệt, ngài lo giáo dục giới trẻ. Với tính vui tươi sẵn có, ngài thu hút được tuổi trẻ. Ngài đi khắp nơi, tụ họp chúng lại, hòa mình vui chơi ca hát với chúng, để rồi hướng dẫn chúng trên đàng đạo đức, luân lý giúp chúng tránh khỏi tình xấu tội lỗi. Ngài thương xuyên bảo:

- Các con cứ ca hát vui chơi thỏa thích. Nhưng đừng bao giờ làm mất lòng Chúa. Luôn luôn sống lành mạnh, thánh thiện.

Ngoài ra, thành nhân còn cò công trong việc thành lập các ban thánh nhạc, gọi là Ô-ra-to-ri-um. Ngài nhờ nhạc sĩ Pa-lết-trin phổ nhạc các thánh thi, thánh vịnh và cho ca hát ngợi khen Chúa. Ngài còn tổ chức Hiệp hội các linh mục triều, cũng gọi là Ô-ra-to-ri-um, để giúp nhau thánh hóa và lo việc mục vụ. Đây là khởi điểm của Hội Dòng Giảng thuyết do ngài sáng lập. Năm 15 75, Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô thứ 13 thấy Hiệp hội của ngài đem lại nhiều lợi ích cho Hội thánh, nên đã cho ngài một ngôi nhà thờ cũ để ngài tái thiết và thành lập Dòng linh mục giảng thuyết. Đây là nhà mẹ của hội dòng ngài sáng lập. Hội dòng không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng sống liên kết với nhau trong tình huynh đệ, với mục đích giúp nhau cầu nguyện, giảng dạy và làm các bí tích phục vụ các linh hồn.

Năm 1595, thánh nhân ngã bệnh và qua đời tại Rô-ma, ngày 26 tháng 5.

Quyết tâm: Noi gương thánh Phi-lip-phê Nê-ri, hằng ngày tôi lo tập rèn nhân đức, để giúp mọi người sống kết hợp với nhau trong Chúa, và giáo dục đào tạo con cháu trong gia đình nên người đạo đức thánh thiện.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa nâng lên hàng chư thánh hiển vinh tất cả những ai trung thành phụng sự Chúa.Xin cử Thánh Thần đến đốt lửa yêu mến trogng lòng chúng con, như xưa Người đã hun đúc tâm hồn thánh Phi-lip-phê Nê-ri một cách lạ lùng.

* Thánh Gioan Đoàn Trinh Hoan
Linh mục tử đạo.

Gương thánh nhân: Cha Gioan Đoàn Trinh Hoan bị bắt đêm mùng ba tháng giêng năm 1861, dưới thời vua Tự Đức cấm đạo. Mặc dù bị tù ngục tra tấn khổ sở, cha vẫn nhiệt thành giúp đỡ các tín hữu bị giam cầm, như lúc chưa bị bắt. Thật cảm động trước hình ảnh một vị linh mục già, mình mang xiềng xích gông cùm, cực nhọc lần bước đến với từng người giáo hữu sắp bị giết vì đạo, để an ủi, khích lệ và ban bí tích cho họ. Trong suốt năm thàng bị giam cầm, cha luôn làm như thế, cho đến ngày ra pháp trường lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Gioan Đoàn Trinh Hoan sinh năm 1798, tại họ Kim Long, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình đạo hạnh, cần mẫn siêng năng. Nhờ ảnh hưởng đạo đức của cha mẹ, cậu đã muốn dâng mình cho Chúa ngay từ nhỏ. Được sự giúp đỡ, hường dẫn của người cậu là cha Kiệt, cậu đã gia nhập chủng viện Pê-năng ở Mã Lai, để tu luyện làm linh mục. Học xong thần học, thầy Gioan về nước, và năm 1836 được lãnh nhận chức linh mục.

Từ ngày thụ phong linh mục, cha Gioan hết lòng phụng sự Chúa và nhiệt thành phục vụ Giáo Hội. Cha đem hết tài năng sức lực lo cho các tín hữu và rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Thấy cha hăng say hoạt động tông đồ, Đức Cha đã sai cha đi giúp nhiều họ đạo, như Kẻ San, Bảy Trời, Mỹ Hương....Tới đâu, cha cũng phục vụ đắc lực và kết quả khả quan. Đặc biệt cha có tài ăn nói giảng dạy, nên mọi người đều có cảm tình và sẵn sàng nghe theo.

Ngoài việc phục vụ, cha còn tận tâm cổ động ơn thiên triệu, đào tạo thầy giảng, huấn luyện thanh thiếu niên và gởi vào chủng viện học tập làm linh mục, vì cha thấy công việc giảng đạo hết sức khẩn thiết và lớn lao mà không có đủ người đảm nhận. Đúng như lời Chúa Giêsu nói: "Lúa chín đầy đồng, thợ gặt lại ít". Là linh mục nhiệt tâm với nước Chúa, cha không thể không băn khoăn lo lắng cho có nhiều thợ gặt trong cánh đồng truyền giáo. Đó cũng là nỗi bức xúc của những ai có lòng đạo đức kính mến Chúa.

Để chuẩn bị mừng lễ Hiển Linh, đầu năm 1861, cha đến họ đạo Sao Bùn, ở trọ nhà ông trùm Phượng, để thăm viếng, giải tội và dâng thánh lễ cho giáo dân. Các quan ở đây biết tin cha đến, đang đêm họ cho binh lính đến bao vây nhà ông trùm bắt cha. Cha vội vàng chạy ra sông tìm đường trốn. Không ngờ vừa đến nơi thì thấy đã có một toán quân ở đó. Thế là cha bị bắt giải về Đồng Hới. Lúc đó cha đã 63 tuổi.

Trong thời gian 5 tháng giam cầm ở đây, nhiều lần cha bị đưa ra tra tấn đánh đập rất dã man. Có những lần bị binh lính lấy kềm sắt nung đỏ bắt vào thịt, buộc cha bước qua Thánh Giá và khai tên những người có đạo. Nhưng cha cương quyết giữ vững đức tin và nấht định không khai báo, và dầu bị hình khổ đau đớn khổ nhục, cha cũng rán sức giúp đỡ các tín hữu cùng cảnh tù ngục với cha. Hằng ngày cha dùng nhiều thời giờ để an ủi, khích lệ các tín hữu trung thành bền đỗ theo Chúa, và giải tội cho họ. Mỗi khi nhận được Mình Thánh Chúa do các linh mục ở ngoài gởi vào, cha đều phân chia cho họ. Nhờ đó họ được sức mạnh can đảm hy sinh vì Chúa.

Ngày 25 tháng 5 năm 1861, cha nhận được bản án trảm quyết. Đêm đó cha thức suốt để thăm viếng khích lệ các bạn tù. Và sáng hôm sau cha được dẫn ra pháp trường, chịu chết vì Chúa.

Đức Thánh Cha Piô X phong Chân phước cho cha ngày 2 tháng 5 năm 1909. Và ngày 19 tháng 6 năm 1988, Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô II đã suy tôn cha lên Hiển thánh.

Quyết tâm: Noi gương thánh Gioan Đoàn Trinh Hoan tử đạo, hằng ngày hy sinh chịu khó rao giảng đạo Chúa, trong hoàn cảnh thuận tiện cũng như lúc khó khăn, bằng lời cầu nguyện, việc hy sinh và gương sáng đời sống.

Cầu nguyện: Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.

* Thánh Mát-thêu Nguyễn Văn Phượng
Trùm họ tử đạo

Gương thánh nhân: "Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy"(Mt 10,37)

Theo lời Chúa phán trên, thánh Mát-thêu Phượng thật xứng đáng với Chúa, xứng đáng làm môn đệ Chúa, xứng đáng nhận triều thiên tử đạo. Thánh nhân đã sẵn sàng hy sinh vĩnh biệt con cái để chịu chết vì Chúa.

Lúc lý hình sắp chém đầu thánh nhân, hai người con trai và người con gái là chị Thủ đã chạy ra ôm chầm lấy ông, thương khóc thảm thiết. Những người có mặt chứng kiến thảm cảnh đó ai cũng bùi ngùi cảm động, không thể cầm được nước mắt. Thật là một cảnh chia ly vĩnh biệt rất đau đớn...Nhưng ông trùm đã cam đảm giã từ các con, sẵn sàng hy sinh tình phụ tử thân thương vì lòng kính mến Chúa, để tôn vinh Danh Thánh Chúa...

Mátthêu Phượng sinh khoảng năm 1808, tại Kẻ Lái, tỉnh Quãng Bình. Cha mẹ là người đạo đức sốt sắng, nên cậu nhờ ảnh hưởng của gia đình mà có lòng đạo sâu xa. Cậu rất mến mộ học hỏi giáo lý, siêng năng tham dự thánh lễ, xưng tội rước lễ. Nhưng chẳng may khi mới lên 10 tuổi, cậu phải mồ côi cha và hai năm sau phải mồ côi luôn cả mẹ...

Cảnh đứa con mới mười mấy tuổi đã mồ côi cha mẹ thật thảm thương! Nhưng cậu Phượng không ngã lòng. Cậu vẫn tin tưởng Chúa, trông ậy Chúa, biết chắc rằng không bao giờ Chúa bỏ cậu. Chim chóc ngoài trời kia Chúa còn không để chết đói, huống gì cậu là con của Chúa. Cậu quyết tâm lo tự lập sinh sống. Cậu xin học nghề thuốc với một thầy lang tên là Nhu. Ông là người ngoại đạo nhưng rất có lòng nhân hậu. Thấy cậu mồ côi ông thương giúp, dạy dỗ chỉ bảo tận tình.

Sau khi học nghề thuốc, cậu Phượng đến ở giúp việc cha Điểm. Năm cậu 22 tuổi, cha cưới vợ cho cậu ở Sáo Bùn; từ đó cậu về sống theo quê vợ, và chuyển sang nghề buôn bán. Vợ chồng làm ăn ngày một tấn phát sung túc và sinh được tám người con. Mặc dầu bận lo buôn bán, ông vẫn luôn chăm sóc, giáo dục con cái hết sức chu đáo. Đặc biệt ông dạy con bằng gương sáng đời sống hằng ngày. Muốn con cái làm việc gì tốt lành, ông luôn làm trước để chúng noi theo. Nhờ đó, các con đều sống đạo đức lương thiện.

Dưới thời vua Minh Mạng cấm đạo, ông là người hoạt động tông đồ nhiệt thành nhất trong họ đạo Sáo Bùn, nên được giáo dân chọn làm trùm họ. Trong lúc thiếu vắng linh mục, ông dạy đạo và rửa tội cho trẻ em củng như người lớn, ông khích lệ đồng đạo sốt sắng thờ phượng Chúa, ông khuyên bảo người lương gia nhập đạo Chúa. Mỗi khi có linh mục đến, ông tiếp đón về nhà, tận tình phục vụ che chở.

Đầu năm 1861, khi cha Gioan Đoàn Trinh Hoan đến họ Sáo Bùn, giúp giáo dân chuẩn bị mừng lễ Hiển Linh, ông rước cha về, tiếp đãi nồng hậu như các cha khác. Chẳng may đêm đó quân lính đến bao vây nhà ông tìm bắt cha. Cha chạy trốn ra bờ sông nhưng bị bắt. Sau đó họ cũng bắt luôn ông và bảy giáo hữu khác, giải về Đồng Hới.

Ở Đồng Hới, ông bị giam trong ngục, nhiều lần bị đưa ra tra tấn đánh đập, buộc ông chối Chúa bỏ đạo, nhưng ông cương quyết không bỏ Chúa. Trong số các quan án, có viên lục sự trẻ tuổi đem lòng yêu mến con gái ông, hứa cứu sống ông nếu ông chịu gã con cho hắn. Nhưng ông thà chịu chết chứ không bao giờ gã con cho kẻ nghịch đạo.

Thế là ngày 26 tháng 5 năm 1861, ông được đưa ra pháp trường lãnh nhận triều thiên tử đạo, bên cạnh những người con thân yêu. Đức Thánh Cha Piô X phong Chân phước cho ông ngày 2 tháng 5 năm 1909. Và ngày 19 tháng 6 năm 1988 Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô II đã suy tôn ông lên bậc Hiển thánh.

Quyết tâm: Hết lòng chăm lo dạy dỗ giáo dục con cái, và sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình, mạng sống để làm chứng cho Chúa, theo gương thánh Mátthêu Phượng trùm họ tử đạo.

Cầu nguyện: Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.

Ngày 27 tháng 5 
THÁNH ÂU-TINH CĂN-TO-BÊ-RI
Giám mục

Gương thánh nhân: Nước Anh đã được đón nhận đức tin từ lâu, nhưng từ khi những người Sắc-song sang xâm chiếm vào thế kỷ 5, lòng đạo của nhiều người ngày càng sa sút. Vì thế, năm 590, Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả tìm người sang củng cố lại niềm tin cho họ. Và ngài đã chọn thánh Âu-tinh với 40 tu sĩ dòng Biển đức. Lúc đó, thánh nhân đang làm bề trên Đan viện thánh An-rê tại Rô-ma.

Các ngài vâng lời lên đường. Nhưng khi nghe những người Sắc-song đang cai trị ở đó rất tàn ác dã man, các ngài sợ hãi trở về.

Được tin tiểu vương miền nam nước Anh là Ết-nê-bê thành hôn với công chúa Bét-tê là người công giáo, Đức Giáo Hoàng liền sai các ngài lên đường một lần nữa. Và đặt Âu-tinh làm trưởng phái đoàn; bắt mọi người trong nhóm phải vâng lời ngài.

Lần này, các ngài đến nơi bình yên. Và nhờ sự trợ giúp của hoàng hậu Bét-tê, thánh nhân và phái đoàn đã hoạt động thành công; đến nỗi Đức Giáo Hoàng đã khen ngợi công lao các ngài:

"Ai có khả năng tả được nỗi hân hoan đã dậy lên trong lòng mọi tín hữu trước sự kiện ấy là: Nhờ ơn Thiên Chúa toàn năng và nhờ công lao của quý huynh, dân Anh đã xua đuổi tối tăm lầm lạc, để được ánh sáng đức tin chiếu soi. Rồi với tâm hồn liêm chính, họ đạp đổ hết các ngẫu tượng mà trước đây họ đã sợ hãi một cách vô lý, sấp mình thờ lạy. Để nay, họ lấy lòng trong sạch sấp mình trước Thiên Chúa toàn năng. Họ được các quy luật của giáo thuyết thánh thiện gìn giữ để lại khỏi rơi vào sự dữ. Họ được các giới răn của Chúa khuất phục tâm hồn và nâng cao tâm trí. Và nay, họ sấp mình sát đất để cầu nguyện, ngõ hầu tâm trí họ khỏi tà tà mặt đất. Công trình đó là của ai, nếu không phải là của Đấng đã phán: "Cha Ta hằng làm việc và Ta cũng vậy." 1

Đức Giáo Hoàng đã đặt thánh nhân làm Tổng Giám mục Căn-to-bê-ri. Và ngài tiếp tục công trình cứu rỗi cho giáo đoàn này đến năm 604 thì qua đời vào ngày 27 tháng 5.

Quyết tâm:Noi gương thánh Âu-tinh Căn-to-bê-ri, tôi hy sinh chịu khó đem Chúa en961 cho các anh chị em ở những vùng xa xôi hẻo lánh, chưa được Ánh sáng Phúc âm chiếu soi.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời giảng dạy của thánh giám mục Âu-tinh mà đem ánh sáng Tin Mừng đến các dân tộc Anh quốc.Xin cho những kết quả công khó của người làm ra tồn tại mãi trong Hội thánh và sinh hoa trái dồi dào.

* Thánh Phaolô Hạnh 
Giáo dân tử đạo

Gương thánh nhân: Con người không ai hoàn toàn tốt, cũng chẳng có ai xấu hết mọi phần. Mỗi người đều có điều hay điểm dở. Có khác chăng, là nơi mỗi người điểm tốt hay điểm xấu nhiều hoặc ít hơn.. Điều cần nhất là phải nhận biết việc tốt mà thi hành, điều xấu mà xa lánh. Chính đó là lý tưởng cao đẹp mọi người cần thể hiện trong đời sống.

Phaolô Hạnh đây cũng là con người, cũng có lỗi lầm khuyết điểm. Vì ham mê của cải, cậu đâm ra xảo trá, lường gạt, cướp bốc, nhưng cũng biết thương giúp người cô thế cô thân. Nhờ đó cậu được phúc tử đạo, trở nên chứng nhân anh dũng của Chúa Kitô.

Cậu Hạnh sinh năm 1827, tại làng Tân Triều, tỉnh Biên Hòa.

Lớn lên, anh muốn tìm kế lập nghiệp, đồng thời để phụ giúp gia đình cha mẹ, nên theo hai anh đến Chợ Quán, Sài Gòn buôn bán. Trong thời gian ở đây, anh quen lớn nhiều người, hùn vốn làm ăn với họ. Trong đó có lắm kẻ không tốt, rù quến anh làm điều xấu, mánh mung, xảo trá, lường gạt, buôn bán gian lận, dần dần đưa đến giựt giọc, cướp bóc, dường như có lúc anh đã cầm đầu một đảng cướp. Người trong vùng dư luận nhiều về anh. Càng ngày họ càng sợ anh, càng xa lánh anh, coi anh là kẻ bất lương kinh tởm !...

Nhưng một dịp may đã làm anh thức tĩnh, đánh động lương tâm anh, khơi dậy trong anh lòng bác ái yêu người Chúa dạy. Một hôm, anh gặp một đám du đãng đang hành hung cướp bóc một thiếu phụ cách rất dã man. Anh xúc động, nhảy bổ vào can thiệp, cứu người thiếu phụ, buộc bọn chúng phải hoàn trả lại tất cả cho nạn nhân. Bị ép buộc và thấy mình yếu thế, bọn du đãng phải làm theo lời anh, nhưng chúng rất căm tức và quyết định trả thù. Chúng biết anh là người công giáo, nên đến tố cáo với quan đồng thời buộc tội anh là Việt gian, thông đồng với quân đội viễn chinh Pháp, chống lại triều đình. Lúc đó ăm 1859, tàu Pháp từ biển tiến vào Cần Giờ, bắn phá thành Gia Định. Vua Tự Đức sợ người công giáo theo phe giặc, nên ra chiếu chỉ bắt đạo gắt gao.

Thế là Phaolô Hạnh bị bắt, giải về Bà Quẹo, tống giam nghiêm ngặt vì thuộc thành phần tội phạm nghiêm trọng. Nhiều lần anh bị đưa ra tra tấn dã man. Người ta căng thân thể anh ra đánh đập, dùng kèm kẹp, lấy thánh sắt nung đỏ dí vào người.

Ngày 31 tháng 5
ĐỨC MẸ VIẾNG BÀ THÁNH Y-SA-VE

Hôm nay, nhắc lại ngày Đức Mẹ đi viếng bà thánh Y-sa-ve, ngay sau khi Mẹ cưu mang Chúa Cứu Thế.

Lúc truyền tin cho Mẹ Maria, sứ thần Ga-bi-ri-el đã báo cho Mẹ biết: Y-sa-ve chị họ ngài đã mang thai được 6 tháng; tuy bà đã lớn tuổi và mang tiếng là son sẻ, vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Sứ thần có ý loan tin đó để cho Mẹ thấy quyền năng cao cả vô cùng của Thiên Chúa, đồng thời để củng cố thêm niềm tin cho ngài.

Nghe tin đó, Mẹ Maria vội vã lên đường đi thăm người chị có phước, vì được Chúa thương cho đứa con an ủi trong lúc tuổi già. Cuộc thăm viếng này không những nói lên tâm tình bác ái yêu thương của Mẹ, mà còn để chia sẻ niềm vui của hai người mẹ, vì niềm vui luôn cần được chia sẻ, để Mẹ mang Chúa Cứu thế, mang bình an hạnh phúc cho gia đình Gia-ca-ri-a, đồng thời, để hai người mẹ được dịp ca ngợi tình thương vô biên của Thiên Chúa.

Chính vì những lý do cao đẹp đó mà Mẹ Maria vội vã lên đường, không quản ngại đường sá khó khăn cách trở. Và này, hai người mẹ vừa gặp nhau thì đứa con trong dạ Y-sa-ve liền nhảy mừng. Và chính bà đã được Thánh thần thúc đẩy chúc tụng ngợi khen Mẹ Thiên Chúa: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ. Và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân mẫu Chúa đến với tôi như vậy? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em." ( Lc. 1, 42-45 ).

Và khi đó, Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng của Người trước khi sinh ra : Người đã thánh hoá Gioan Tẩy giả ngay lúc còn ở trong bụng mẹ. Và Gioan cũng đã thực hiện sứ vụ tiền hô của mình khi nhảy mừng Đấng Cứu thế. Và Đức Maria, nhờ ơn Thánh Thần tác động, đã cất lên bài ca cảm tạ hồng ân Chúa đã ban, với những lời lẽ vô cùng cao quý. Những lời lẽ mà Hội thánh luôn dùng đến để ngợi khen Chúa: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi..."

Thánh Bê-đa đã quảng diễn bái ca cảm tạ của Mẹ Maria như sau: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Đức Mẹ dùng những lời ấy, trước hết là để tuyên dương các ơn Chúa đã đặc biệt ban cho chính Ngài. Rồi sau đó, Ngài mới kể đến các ơn chung mà Chúa không ngớt làm cho tất cả nhân loại...

Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn. Do đó, Ngài không gán cho mình một công trạng nào. Mọi sự cao cả của mình, Ngài quy về ơn Chúa, Đấng mà bản tính là quyền năng và cao cả, nhưng quen làm cho các tín hữu của Người từ những kẻ bé mọn và yếu đuối, nên cao cả và mạnh mẽ.

Và Ngài có lý khi thêm: Danh Người thật chí thánh chí tôn. Để khuyên những ai nghe Ngài nói, và thậm chí cả những ai mà các lời của Ngài sẽ vọng tới tai, hãy chạy đến tin tưởng và cầu khẩn danh Chúa, vì chính họ cũng có thể được dự phần ơn thánh hoá đời đời và ơn cứu độ chân thật. Như lời ngôn sứ đã nói: Ai cầu khẩn Danh Chúa, sẽ được cứu rỗi. Đó chính là Danh mà trên kia Ngài đã nói: Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi."

Thật chỉ một cuộc thăm viếng mà đã đem lại cho chúng ta biết bao bài học thiêng liêng cao quý !...

Quyết tâm:Noi gương Mẹ Maria, hằng ngày tôi sống bác ái yêu thương, và biết chia sẻ niềm vui ơn cứu rỗi cho gia đình, thân nhân, bạn hữu, bằng cách đem Chúa đến cho họ.

Lời nguyện: Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Thánh Mẫu Maria vừa mang thai Chúa Giêsu, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm viếng bà Y-sa-ve. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Maria ngợi khen Chúa muôn đời.

1873    09-03-2011 08:21:25