Sidebar

Thứ Bảy
27.04.2024

Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm Phụng Vụ B

  1. Khiêm Nhường
  2. Thiên Chúa, Đấng Trung Tín
  3. Vui Nhận Ý Chúa
  4. Mẹ Maria Với Chương Trình Của Thiên Chúa
  5. Cộng Tác Với Thiên Chúa
  6. Tự Do và Trách Nhiệm
  7. Xin Vâng Trong Niềm Tin và Hy Vọng
  8. Sự Vâng Phục
  9. Xin Mẹ Dạy Con Hai Tiếng Xin Vâng
  10. Khiêm Nhường
  11. Maria Nói Lời Xin Vâng
  12. Vui Lên Hỡi Đấng Đầy Ân Sủng
  13. Xin Vâng
  14. Xin Vâng Như Trinh Nữ Maria Ðể Chờ Ðón Chúa Ra Ðời.
  15. Tình Chúa Muôn Ngàn Đời
  16. Khiêm Nhường Đón Nhận
  17. Thiên Chúa Viếng Thăm Dân Người
  18. Khiêm Hạ Đón Nhận Mặc Khải Của Thiên Chúa
  19. Chúa Nhật Của Mẹ
  20. Dấn Bước Trong Niềm Tin Xin Vâng
  21. Fiat
  22. Mẹ Maria
  23. Xin Vâng
  24. Khiêm Nhường Đón Nhận
  25. Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng
  26. Dọn Lòng Đón Nhận Chúa Đến Như Mẹ
  27. Cùng Mẹ Maria Sửa Soạn
  28. Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng
  29. Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng
  30. Vai Trò Của Mẹ Maria Trong Lịch Sử Cứu Độ

KHIÊM NHƯỜNG
Lc 1, 26 - 38

Cách đây ít lâu, khi có dịp về thăm họ đạo Phú Hiệp khi đến Cái Mơn tôi có ghé vào uống nước tại một quán cà phê gần nhà thờ. Khi mới vừa bước vào quán thì có một em bế đến hỏi “Thầy uống chi a?” Tôi thật lá bất ngờ. Vì ở một nơi rất xa, tôi vẫn chưa giới thiệu mình là thầy mà em bé đó đã biết. Tôi cứ suy tư mãi và có phần hãnh diện về mình và suy nghĩ trong đầu, mình thật là oai đến đây mà họ vẫn biết mình là thấy. Nhưng sau đó đến lúc trả tiền tôi liền mạnh dạn hỏi “Sao con biết thầy là thầy mà kêu thầy vậy?”. Thì được em bé đó trả lời: “Dạ! Cô con dặn ai bỏ áo vào quần mà ghé quán này con đều phải xưng bằng thầy hết” Cuối cùng tôi mới hiểu vì quán này gần trường học nên các thầy ghé nhiều, em bé chỉ xưng hô như đã mạc đinh mà thôi. Thật là quê! Vì tôi cứ nghĩ là họ nhận ra mình làm cho mình huênh hoang tự đắc trong lòng. Khi đó tôi liền nhớ đến lời Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: “Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần”. Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau : “Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường”.

Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại : Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên : Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.

Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác : nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã…Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.

Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù đen tối. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.

Lạy chúa, xin cho con biết mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng” để xin Mẹ trợ giúp : “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng : hôm nay, tương lai và suốt đời”. Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.

THIÊN CHÚA, ĐẤNG TRUNG TÍN
Lc 1, 26 – 38

Trên đời này, chữ tín rất quan trọng; có chữ tín người ta mới dễ dàng thành công trong công ăn việc làm. Chúng ta thử nhìn ra giữa chợ, phố xá: vì chữ tín, người ta dám cho nhau vay, cho mượn hàng trăm triệu đồng không cần thế chấp, giấy tờ. Điều đó đủ minh chứng chữ tín vô cùng quan trọng…

Trong kho tàng văn học Pháp, có một câu chuyện ngụ ngôn: Một em nhỏ tính tình không tốt, em lại thích gạt gẫm người khác…Một hôm, em từ bìa làng chạy vào, vừa chạy vừa la thất thanh: chó sói, chó sói…cứu tôi, cứu tôi! Người trong làng nghe la chạy ra, vừa chạy tay cầm theo gậy hèo để tiếp cứu; nhưng khi đến nơi mới biết bị em bé gạt. Họ tiu nghỉu bỏ ra về. Không lâu sau đó, một hôm em bé trở về làng, cũng la thất thanh và kêu cứu như thế. Lần này dân làng vì nhớ chuyện củ, nghĩ rằng lại bị em bé ngổ nghịch gạt nữa, nên không ra tiếp. Em bé bị chó sói cắn thật, đến mất mạng… Hôm nay, Hội thánh lại nói đến việc Thiên Chúa là Đấng trung tín hết lòng, đã hứa và đã thực hiện… Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, đã hứa từ ngàn xưa trong Cựu Ước: Qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta biết Adam và Evà đã phạm tội, do đó đã đem lại hậu quả tai hại là hết mọi người đều phải chết. Dù vậy lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa không đành bỏ mặc con người phải chết đời đời, Người đã hứa sẽ tìm cách cứu vớt lại lỗi lầm đó, qua các Tổ phụ, các Tiên tri:

  • Trong vườn địa đàng, sau khi con rắn cám dổ Ông bà phạm tội, Chúa đã chúc dữ cho con rắn và phán: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người Nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người Nữ. Dòng giống đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân Người…” (Stk 3, 15).
  • Thiên Chúa sai Isaia nói cùng vua Achaz rằng: “chính Chúa ban cho các ngươi một dấu lạ. Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel.”(Is 7, 14).
  • Ở chổ khác, trong sách Mikêa: “Chúa phán thế này: phần ngươi, hởi Bêlem Epphrata, ngươi nhỏ nhất trong phần đất Giuda, nhưng từ nơi ngươi, sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel, Người có từ đời đời…”(Mic 5, 1)

Dân tộc Israel, (Do thái) được coi là dân riêng Thiên Chúa tuyển chọn, để Người thực hiện Lời Hứa này; chính họ hiểu rõ Lời Hứa đó hơn ai hết, và họ luôn trông ngóng ngày giờ Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa, một thời gian rất dài, từ Adam Evà cho đến khi Đấng Cứu thế giáng sinh. Kinh thánh kể là lối 2000 năm, nhưng thực tế lịch sử cho ta biết còn dài hơn nhiều….

b/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, khi đến thời đến lúc, Người sẽ thực hiện lời Người đã hứa:

  • Bài TM hôm nay tường thuật lại biến cố giáng sinh; Lời Thiên Chúa hứa qua chính Con Một của Ngài: “Nầy đây, một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai. Bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu David, Tổ phụ Người, Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Nguời sẽ vô tận.” (Lc 1, 31-32)
  • Chính thánh Phaolô quả quyết: “khi xưa vì một người duy nhất đã sa ngã (Adam củ trong vườn địa đàng) mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, nay nhờ một người duy nhất (Adam mới: Đức Giêsu Kitô) đã thực hiện lẻ công chính, mà mọi người được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống (Roma 5, 18).

Câu chuyện: Có một giai thoại hài kể lại: người ta nói rằng: người Mỹ là người nói trước làm sau, nghĩa là nói là làm, rất uy tín. Người Nhật còn dữ dội hơn; họ làm trước nói sau, nên không bao giờ mất uy tín. Còn người VN chúng ta, thì sao biết không? Thưa: nói một đàng làm một nẻo. Xin lỗi anh chị em, nói câu này không biết có bị chưởi bới và bị kết án như Đức Tổng Kiệt không?

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta, điều này ta thật dễ hiểu. Nhưng nói Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người luôn giữ lờiNgười đã hứa, nhất là với con người chúng ta, điều này xem ra không dễ hiểu tí nào. Vì do tội nguyên tổ, con người chúng ta hay thay lòng đổi dạ, ít khi trung tín với nhau. Vậy mà qua mầu nhiệm giáng sinh, Thiên Chúa tỏ ra vô cùng trung tín. Trong mùa giáng sinh này, xin cho mọi người kitô hữu hiểu được điều đó, để sẳn sàng đáp lại tình yêu vô bờ của Thiên Chúa.

VUI NHẬN Ý CHÚA
Lc 1, 26 - 38

Có một chàng thư sinh nghèo nhưng lại có căn bệnh sĩ diện, nên đi đến đâu anh cũng muốn chứng tỏ mình là một người phong lưu, hào phóng với mọi người. Có những lúc phải vay nợ vì sự hào phóng nầy. Mọi người đều rất ngưỡng mộ anh vì tưởng anh là một công tử nhà giàu, nên mới hào phóng như thế. Tiếng đồn đến tai một tên trộm, hắn lần mò theo dấu chân chàng thư sinh nọ và đến nhà anh ta. Tên trộm vào nhà tìm mãi không được của gì đáng giá, nó mới tìm cách khống chế gia chủ, sau một lúc dùng biện pháp mạnh tra hỏi, mới biết trong nhà không có gì, tên trộm vừa bỏ đi vừa nói: hôm nay là ngày không tốt, đến trộm nhà một người còn nghèo hơn cả mình. Chàng thư sinh nọ nghe thế, máu sỉ diện trổi dậy, anh cố tìm hết trong nhà còn được mấy đồng lẽ, chạy theo, cố nài nỉ đưa cho tên trộm và bảo: hôm nay trong nhà hết tiền, còn mấy đồng anh xài đở, đừng nói cho mọi người biết việc hôm nay. Thật là một căn bệnh không thuốc chữa. Chàng thư sinh không biết mình đang cần gì và mình đang thiếu những gì. Anh ta chỉ sống bằng cái vỏ bọc bên ngoài, lâu ngày quen dần nên không còn biết mình là ai và đang cần gì hoặc đang thiếu những gì. Căn bệnh sĩ diện làm cho anh chỉ biết cho mà không dám nhận, nên khi trở về với con người thật thì anh không còn gì. Làm sao cho được cái mà mình không có.

Hôm nay một lần nữa, chúng ta vừa được chứng kiến lại giây phút lịch sử của tình yêu thương, giây phút mang niềm hy vọng, mang sự sống đến cho con người.

Mẹ Maria nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, Mẹ cũng đang trông chờ ơn cứu rỗi, trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người. Mẹ cũng có những dự tính, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ biết những gì mình đang có và mình phải cho đi những gì. Đó chỉ là những giới hạn nhỏ bé của con người. Quan trọng hơn Mẹ còn biết mình đang thiếu thốn những gì và cần những gì. Trong tâm tình biết cho và nhận, Mẹ đã nhận lời đề nghị của Thiên Chúa với tâm tình của một người tôi tớ, nhận với tất cả sự vâng phục, nhận vì Mẹ nhìn thấy đây là điều thiết phải chấp nhận. Mẹ còn chấp nhận vì thấy mình còn đang thiếu và cả nhân loại cũng đang thiếu và cần đến sự chấp nhận của Mẹ. Trong khi nhận, Mẹ đã biết cho đi những gì là riêng tư của mình. Mẹ đã cho đi tuổi thanh xuân của một thiếu nữ, cho đi những ước muốn, cho đi những toan tính, cho đi cả sự bình an mà Mẹ đã chuẩn bị cho mình. Mẹ đã biết cho và nhận vì Mẹ biết mình đang cần gì và còn đang thiếu những gì. Chính vì Mẹ đã biết cho và nhận một cách quãng đại như thế, nên hồng ân cứu rỗi mới được ban xuống cho loài người.

Nhân loại ngày hôm nay đã nhận biết bao hồng ân, nhưng vì là con người: nhân vô thập toàn nên họ cũng còn thiếu thốn rất nhiều. Vậy mà rất nhiều người không biết mình đang có gì và đang cần gì, chính vì thế họ không biết mình phải cho những gì vì cần phải nhận những gì để cho đời sống mình được phong phú hơn.

Mỗi người trong chúng ta không thoát khỏi cái thường tình của con người. Hiện tại rất nhiều người mang lấy căn bệnh của chàng thư sinh nghèo; con người trống rỗng, không có gì hết, nhưng lại không muốn cho ai biết sự nghèo nàn trong cuộc sống. Chúng ta đang nghèo tình yêu thương, nghèo về sự quảng đại, nghèo về lòng tha thứ, nghèo về hồng ân Chúa. Vậy mà bao nhiêu lời khuyên và lời kêu mời quay trở về với Chúa để được đong đầy, chúng ta không thể thực hiện được. Chúng ta đang mang căn bệnh sỉ diện của tự ái, của lười biếng, của sự ích kỷ hiềm khích, nên không thể lắng nghe và hành động được.

Chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và noi gương Mẹ để biết cho đi con người yếu hèn của mình và xin Chúa cho được ơn can đảm biết chấp nhận những gì xảy đến trong đời sống hằng ngày. Đó là chúng ta biết nhận cùng với sự vâng phục như Mẹ. Nếu chúng ta biết cho đi những định kiến, những nóng vội, những phán đoán không cần thiết, để biết bình tỉnh chấp nhận Thánh ý Chúa trong những nghịch cảnh, trong những người không làm cho mình vui, hay trong những lúc ưu sầu phiền não. Những lúc đó, chúng ta đang đi theo những bước chân của Mẹ rất thánh, là biết cho đi và biết chấp nhận. Như thế thì hồng ân Chúa đang đến với mỗi người và nhờ đó lan toả ra cho nhiều người.

Xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người, để biết đón nhận hồng ân Chúa cho xứng đáng.

MẸ MARIA VỚI CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA
Lc 1, 26 - 38

Một vị vua biết yêu thương dân thì muốn biết đích xác về cuộc sống của thần dân mình. Những vị vua đó thỉnh thoảng vi hành để nắm rõ thực trạng của dân chúng. Còn Thiên Chúa đối chúng ta thì sao? Chúa không chỉ đi thăm dân mà còn sống thân phận của người dân, trở nên như phàm nhân ngọai trừ tội lỗi để cứu dân mình khỏi khổ đau và quyền lực của bóng tối sự chết. Để thực hiện điều đó, Chúa đã chọn dân tộc Israel và sai các tiên tri dạy dỗ, hướng dẫn họ sống đạo đức để có thể đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Ngài đã sai Tổng lãnh Thiên thần Raphae đến một làng nhỏ miền Galilê và truyền tin cho Trinh nữ Maria biết ý định của Ngài.

Đức Maria đã vui mừng về ơn cứu độ của Chúa và đã nhận lời cưu mang Đấng Cứu Thế. Dù Mẹ có thể gặp khó khăn khi mang thai nhưng mẹ hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu. Ngay lúc Thánh Giuse định bỏ đi thì Thiên Thần Chúa can thiệp: báo mộng cho Giuse về ý định của Chúa: hãy rước Maria về nhà vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse hiểu ý Chúa và đón Đức Maria về nhà mình làm bạn mình và nhận Đức Giêsu làm con về mặt pháp lý.

Đâu ai ngờ được đường lối Chúa: vì yêu thương nhân loại đã không ngại xuống trần làm trẻ thơ và chịu những đắng cay của cuộc sống trần gian như chúng ta. Còn hơn thế nữa, Ngài đã chịu những khổ đau như những người đau khổ nhất: sinh nơi chuồng bò lừa, nằm trên máng cỏ! Đức Maria tin tưởng nơi chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Khi nhận vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã không đòi biết trước chương trình của Chúa nhưng chỉ hỏi để biết rõ ý Chúa muốn mình làm. Mẹ sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ: này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. Mẹ vâng phục rất là mau mắn. Việc thụ thai bởi quyền năng Chúa mà không qua kết hợp phái tính chưa từng xảy ra trên trần gian: một người nữ có con không do sự kết hợp phái tính, nhưng mẹ không thắc mắc thêm cũng không hỏi lại xem mình có nghe lầm không! Khác với Giacaria: chuyện có con trong lúc tuổi già đã từng xảy ra cho Abraham. Tuy cũng là một việc thụ thai kỳ lạ nhưng có thể dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, Mẹ đã chấp nhận thánh ý với lòng đơn sơ phó thác nơi quyền năng trong niềm tin vào Chúa. Mẹ tin rằng : đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được(St 18,14)

Noi gương Đức Maria, chúng ta vâng theo kế hoạch kỳ diệu của Chúa đối với mọi người chúng ta. Chúa không để chúng ta phải thiệt thòi nhưng luôn muốn ban ơn thật nhiều cho chúng ta. Chúng ta có dám nhận và và phát triển ơn Chúa ban đó để cuộc đời chúng ta nên tươi sáng và giống Chúa ngày một hơn không. Chúng ta tự hỏi xem Chúa muốn chúng ta ở địa vị nào trong xã hội, với ơn gọi và những bổn phận nào là xứng hợp với chính mình. Nếu Chúa muốn sai tôi làm công việc bác ái, giúp đỡ anh em tôi có vui lòng làm mà không đòi điều kiện không? Nếu Chúa muốn tôi sống nghèo giống Chúa Giêsu, tôi sẽ có thái độ nào. Nếu Chúa đặt chúng ta ở địa vị cao hơn, chúng ta có biết phục vụ Chúa và mọi người đúng mức không?

Lạy Mẹ Maria, chúng con quyết noi gương Mẹ luôn tin tưởng phó thác vào Chúa, cho dù con gặp gian truân xin Mẹ giúp con luôn giữ lòng trung tín mến yêu, cậy trông nơi quyền năng và sự xếp đặt của Chúa.

CỘNG TÁC VỚI THIÊN CHÚA
Lc 1, 26 – 38

Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật IV muà vọng, thời điểm gần hơn của Lể Chúa Giáng Sinh. Thời điểm này Giáo Hội trình bày cho chúng ta một gương mặt quan trọng của biến cố Chúa Giáng Sinh. Đó chính là Đức Maria, một người nữ đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, để qua Người, Con Thiên Chúa được Nhập Thể và Nhập Thế.

Đức Maria là một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi người thiếu nữ khác nhưng là người đặc biệt hơn mọi thiếu nữ khác vì được “đầy ân sủng” và được “Thiên Chúa ở cùng” (Lc 1, 28). Hơn nữa, Đức Maria là người được chọn làm Mẹ Đấng Messia ( Lc 1, 30 -33). Mặc dù được những ưu tiên như thế nhưng Mẹ Maria không tỏ ra kiêu căng, ngược lại, Đức Maria đã làm theo sáng kiến của Thiên Chúa trong tâm tình khiêm tốn, Vâng Phục Ngài cách tuyệt đối.

Con người là một tạo vật được Thiên Chúa yêu thương , và vì yêu thương mà Ngài đã dựng nên. Ngài ước ao sẻ chia tình yêu thương nên đã tạo dựng con ngưởi, một lòai thụ tạo trên mọi loài thụ tạo. Nhưng khác với mọi thụ tạo khác, con người có lý trí, ý chí và con người còn có tự do, nó có thể ước muốn, đón nhận hay chối từ món quà của Thiên Chúa, có thể nói tiếng “xin vâng” hay “không xin vâng” với lời mời gọi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn muốn cho con người hạnh phúc và Ngài tôn trọng tự do của con ngươi. Vì được tự do và muốn làm theo ý mình nên người nữ đầu tiên tức là Bà Evà đã phạm tội, Bà đã đưa nhân lọai vào sự chết do bất tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Ngược lại, Đức Maria được coi là Bà Evà mới, dùng sự tự do của mình để hoàn toàn vâng phục và cộng tác với sáng kiến của Thiên Chúa, để Ngài thực hiện chương trình cứu độ trong cuộc đời mình.

Đọc lại bài Tin Mừng Lc 1, 26 – 38 này, ta được chứng kiến giây phút lịch sử của tình thương, giây phút tràn trề niềm hy vọng, giây phút mang lại sự sống mới, sự sống cứu độ đến cho con người.

Sống trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, như những người khác, Đức Maria đang trông chờ Đấng Cứu Thế. Mẹ nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, nỗi trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người của nhân loại của Đức Maria. Đức Maria cũng có những dự tính riêng tư, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ đã sẳn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Vì thế, khi được sứ thần đề nghị Mẹ cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa thì Mẹ chấp nhận ngay, Mẹ đã nhận lời với tâm tình của một người tôi tớ, đón nhận tất cả trong sự vâng phục.

Tiếng “Xin Vâng” của Đức Maria âm thầm lăng lẽ trong ngôi nhà nhỏ bé. Việc Chúa khởi đầu bao giờ cũng nhỏ bé, nơi những con người nhỏ bé. Tiếng “Xin Vâng” với lòng yêu mến và sự khiêm hạ của Đức Maria đã trổ sinh sự sống mới cho con người. Từ tiếng “Xin vâng” của Đức Maria mà Thiên Chúa làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ con người. Mẹ đã góp phần vào ơn cứu độ thế giới, qua việc hiến dâng bản thân mình, sẳn sàng phục vụ cho ý muốn của Thiên Chúa.

Càng nhìn về Đức Maria, càng cho ta thấy mẫu gươngvề sự cộng tác với Thiên Chúa. Cuộc sống có những điều xảy đến ngoài ý muốn của mình. Xin Chúa cho ta biết can đảm chấp nhận. Ngoài ra chúng ta biết cho đi những định kiến, nóng vội, những trái ý trong cuộc sống.... khi có những người không làm cho mình vui. Đó là lúc chúng ta đi theo bước chân của Mẹ.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vui lòng cộng tác với Thánh Ý Thiên Chúa, Mẹ là Đấng đồng công Cứu chuộc, là máng chuyển thông ơn cho nhân loại. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống đạo cho nên, biết thờ phượng Chúa cho phải Đạo, và sẳn sàng yêu thương, giúp đỡ cho tha nhân,.. để nhằm làm sáng danh Chúa. Amen.

TỰ DO và TRÁCH NHIỆM
Lc 1, 26 - 38

Thánh Agustinô đã nói: “Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần hỏi ý kiến của con, nhưng để thánh hoá và cứu độ con thì Chúa cần sự góp sức của con”. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa quyền năng: “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Dẫu vậy, Thiên Chúa không muốn hành động lấn át tự do của con người, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Tự do chính là tặng phẩm cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người. Khi ban tặng tự do cho con người, Thiên Chúa vẫn biết rằng: con người có thể lạm dụng tự do để làm việc chuyện xấu, nhưng Ngài vẫn ban cho con người tự do vì quá yêu thương họ. Tự do đi liền với trách nhiệm. Vì có tự do nên con người phải có trách nhiệm và chịu trách nhiệm, nhất là trách nhiệm về những việc liên quan đến phần rỗi đời đời của mình.

Con người thường dùng tự do để thực hiện những chọn lựa của mình và họ phải chịu trách nhiệm trong những chọn lựa ấy. Con người có thể dùng tự do để chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của đời mình, làm hạnh phúc của đời mình; nhưng con người cũng có thể dùng tự do của mình để khước từ Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy được rất rõ điều này trong cuộc sống. Nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy được rằng: Càng biết dùng tự do của mình để chọn những điều tốt thì chúng ta càng được tự do, nhưng nếu chúng ta sử dụng tự do của mình để chọn những điều xấu thì chúng ta càng bị mất tự do.

Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại cho chúng ta nghe biến cố “truyền tin”. Thiên Thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến báo tin cho Đức Maria biết là Thiên Chúa muốn mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa chờ đợi sự tự do đáp trả của Đức Maria trong việc quan trọng này. Chúng ta thấy, Đức Maria cũng rất bối rối và đầy thắc mắc khi nghe lời báo tin của Sứ thần. Nhưng sau khi được nghe giải thích: Đấng Mẹ sẽ cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, là Con Thiên Chúa tối cao và sẽ trở thành Đấng Cứu độ muôn dân, Mẹ đã tự nguyện nói lên 2 tiếng “Xin vâng”. Đức Maria đã đồng ý để cho Thiên Chúa hành động trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đã dùng sự tự do của mình để chọn Thiên Chúa, chọn chương trình của Thiên Chúa để làm theo và Mẹ hoàn toàn chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Mẹ đã quên đi lời cầu nguyện mà mọi người thường dùng để thưa với Chúa là: “Xin ý Chúa được đổi lại”, nhưng Mẹ đã học biết và thân thưa với Chúa lời cầu nguyện lớn nhất của trần gian là: “Xin ý Chúa được thực hiện” .

Chắc chúng ta cũng có suy nghĩ này là: được kêu gọi làm Mẹ Thiên Chúa thì còn gì bằng! Tội gì mà không chịu? Nhưng đó là cách nhìn trần thế và mang tính dụ lợi của con người. Quả thật là khi kết thúc cuộc đời trần thế, thì Mẹ Maria được vinh dự đón nhận triều thiên vinh quang với tước hiệu Nữ vương Thiên quốc. Nhưng để đạt được điều đó. Đức Maria đã trải qua một cuộc đời đầy những gian lao, đau khổ và nguy hiểm. Trước hết, Đức Maria đã phải hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Tin mừng cho chúng ta biết là trước khi được Sứ thần đến báo tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, thì Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse rồi. Đính hôn nhưng chưa chung sống. Như thế, nhận cưu mang Con Thiên Chúa, Mẹ có thể bị hiểu lầm từ nhiều phía: từ thánh Giuse và từ những người quen biết Mẹ, ngay cả Mẹ có thể bị ném đá cho đến chết. Vì đối với luật Do thái, một phụ nữ chưa có chồng chính thức mà mang thai thì sẽ bị ném đá cho đến chết. Như thế, chúng ta thấy nguy hiểm đang đe doạ Mẹ, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Thiên Chúa và chịu trách nhiệm cho những gì Mẹ đã chọn lựa. Một lần xin vâng là Mẹ xin được trọn vẹn thuộc về Chúa. Chọn lựa của Mẹ Maria là sự chọn lựa cao nhất và lớn lao nhất trong lịch sử của nhân loại.

Chọn lựa của Mẹ Maria làm cho chúng ta phải suy nghĩ về chọn lựa đối nghịch lại của bà Eva ngày xưa. Eva cũng dùng tự do của mình để chọn lựa, nhưng chọn lựa của bà Eva đã làm cho mọi sự bị xáo trộn và đảo ngược theo chiều hướng xấu. Mọi sự đang tốt đẹp trở nên xấu xa và tội lỗi. Hậu quả bi thương ấy không những ảnh hưởng cho riêng bà mà còn cho biết bao nhiêu con người khác. Chọn lựa của bà Eva ngày xưa xuất phát từ sự tham lam và kiêu căng. Bà Eva đã chọn làm theo ý riêng mình mà khinh thường mệnh lệnh của Chúa, khinh thường thánh ý của Chúa và cũng là khinh thường chính Thiên Chúa nữa. Ngược lại, Đức Maria đã chọn lựa làm theo ý Chúa để làm vinh danh Chúa và mang lại nhiều ích lợi cho con người. Hạnh phúc không phải là kết quả của những chọn lựa tham lam và kiêu căng theo ý con người, nhưng là chọn lựa và làm theo thánh ý của Thiên Chúa. Con người thường lầm tưởng là tiền tài, danh vọng, sức khoẻ sẽ mang lại hạnh phúc cho con người. Những điều ấy tuy có làm cho con người bớt đi phần nào những gánh nặng trong cuộc sống trần thế, nhưng đó chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người đâu. Chúng ta đừng lầm tưởng và mê muội như thế. Chọn lựa sai lầm trong cuộc sống sẽ đưa đến hậu quả tai hại biết là dường nào, và trách nhiệm nặng nề ấy chúng ta phải mang lấy.

Chuyện kể rằng: “Có một người nông dân nghèo, suốt đời vất vả ngược xuôi nhưng cũng không có đủ cơm ăn áo mặc cho đàng hoàng. Thình lình anh nghe người ta nói là ở trên ngọn núi cao cách nhà anh khoảng 200 dặm, có một vị pháp sư tài giỏi, có thể giúp anh thoát cảnh nghèo khổ. Thế là anh khăn gói lên đường. Vất vả tìm kiếm và cuối cùng anh cũng tìm được vị pháp sư ấy. Vị Pháp sư hỏi anh muốn gì? Anh trình bày với vị Pháp sư hoàn cảnh của mình và mong muốn được giúp đỡ. Vị Pháp sư bình thản trả lời: “tưởng gì chứ chuyện đó thì dễ thôi. Nhưng tôi cũng nói cho anh biết nó nguy hiểm lắm”. Anh nông dân nghèo liền trả lời: “Không sao. Chỉ có cái nghèo mới nguy hiểm chứ ngoài ra không có gì nguy hiểm cả”. Thế là anh năn nỉ cho bằng được điều anh mong ước. Cuối cùng vị Pháp sự cũng chìu ý anh. Vị Pháp sư căn dặn rằng: “Tôi sẽ dạy anh thuộc lòng câu thần chú này. Bất cứ khi nào anh đọc câu thần chú lên thì có một thằng quỷ xuất hiện và đợi lệnh anh. Nhưng anh nhớ là phải có việc cho nó làm, nếu không thì nó sẽ vặn cổ anh đó”. Anh nông dân hí hửng ra về. Vừa đến nhà, anh liền đọc câu thần chú lên và một thằng quỷ xuất hiện. Anh ra lệnh nó dọn cho anh một bữa ăn thịnh soạn. Tưởng cũng phải mất 1 tiếng đồng hồ. Ai ngờ chỉ 30 giây là xong ngay. Nó đứng chờ lệnh anh. Anh ra lệnh cho nó xây cho anh một căn nhà sang trọng cỡ nhà vua ở. Tưởng phải mất một vài tháng, nào ngờ chỉ 5 phút là xong. Anh ra lệnh tiếp cho nó đi tìm cho anh một người mỹ nữ về làm vợ. Tưởng mất vài ngày, nào ngờ cũng chỉ 3 phút là có ngay cho anh một cô giá tuyệt trần. Hốt hoảng anh không còn biết phải ra lệnh gì nữa. Nhưng thằng quỷ nói: “Nếu ông không có việc cho tôi làm là tôi sẽ vặn cổ ông đó”. Sợ quá, anh bảo nó canh nhà cho anh đi công việc. Nó tuân lệnh và anh hối hả chạy đi tìm vị Pháp sư để xin được giúp đỡ. Gặp vị pháp sư anh liền trình bày vấn đề. Vị Pháp sư bình thả trả lời: “Tôi đã nói với anh rồi. Nó nguy hiểm lắm, thế mà anh không nghe”. Anh năn nỉ vị Pháp sư thương giúp anh khỏi chết. Thế là vị Pháp sự dặên bảo anh về nhà bảo thằng quỷ ngồi đó vuốt đuôi con chó cho thẳng ra. Và thế là thằng quỷ phải làm công việc ấy cho đến thiên thu vì đuôi con chó được vuốt thẳng ra lại co vào mãi. Thế là anh thoát nạn.

Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: chọn lựa sai lầm trong cuộc sống này thật là nguy hiểm và chúng ta phải lãnh lấy trách nhiệm nặng nề là dường nào. Câu chuyện cũng cho chúng ta thấy: hạnh phúc không hệ tại ở việc có đầy đủ mọi thứ sang trọng ở trần gian nhưng là niềm vui được sống bình an trong những chọn lựa của mình, với những gì mình đang có trong tầm tay.

Ước gì mỗi người chúng ta biết tận dụng tự do cũng như mọi khả năng của mình để chọn và làm theo ý Chúa như Đức Maria đã làm để chúng ta được hạnh phúc ngay ở trần gian này vì mình được tâm hồn bình an và nhất là ngày sau chúng ta được chia sẻ vinh quang với Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Amen.

XIN VÂNG TRONG NIỀM TIN VÀ HY VỌNG
Lc 1, 26 - 38

Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm Phụng vụ 2009. Nếu như hai Chúa nhật trước Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt nổi bật là Gioan Tẩy Giả, thì Chúa nhật thứ này chúng ta được giới thiệu một khuôn mặt nổi bật hơn. Khuôn mặt ấy chính là Ðức Maria – một mẫu gương sống động về niềm tin và hy vọng.

Có lẽ, đoạn Tin mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay rất quen thuộc với từng người tín hữu chúng ta. Bởi vì, đây là một trong những biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ. Ðức Maria đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa qua lời của thiên sứ Gariel. Lời mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ con người. Lời mời gọi làm mẹ Con Thiên Chúa làm người.

Ðức Maria đã đáp lời thiên sứ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Với lời thưa này, Mẹ không đáp trả một cách bộp chộp nhưng hoàn toàn có suy nghĩ chín chắn. Bằng chứng là Mẹ đã có đối thoại với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1, 34). Sau khi nhận ra đây là thánh ý Thiên Chúa, Ðức Maria đã hoàn toàn xin vâng theo ý Chúa.

Mặc dù trước mắt Mẹ sẽ phải trả giá trước dư luận: “chưa chồng mà có chửa”. Mẹ tin tưởng và hy vọng Thiên Chúa sẽ có cách làm cho Mẹ đủ sức vượt qua khó khăn thử thách này. Hơn thế nữa Mẹ tin tưởng và hy vọng qua người con Mẹ sinh ra sẽ đem đến cho nhân loại một bầu khí mới. Và đúng vậy, những gì Mẹ tin tưởng và hy vọng đã hoàn toàn trở nên sự thật. Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại một sức sống mới. Một sức sống không một ai ở trần gian này có thể làm được.

Chúng ta còn nhớ trong năm vừa qua Ðức Thánh Cha Beneđicto 16 đã ra Thông điệp Niềm hy vọng Kitô giáo. Trong thông điệp này ngài kêu mời các con cái mình hãy sống tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Có tin tưởng và hy vọng vào Chúa đời sống hiện tại của chúng ta mới có thể thay đổi. Ðời sống thay đổi theo những gì Chúa khuyên dạy.

Mỗi người chúng ta hãy tiếp tục sống những ngày còn lại của mùa vọng trong niềm tin và hy vọng vào Chúa như gương Ðức Maria. Ðể rồi Lễ Giáng Sinh sắp tới thật sự là một Ðại lễ theo đúng nghĩa của nó.

SỰ VÂNG PHỤC
Lc 1, 26 – 38

Hành trình chuẩn bị chờ đón Chúa đến sắp kết thúc với CN 4 MV. Thời gian chuẩn bị không còn nhiều nữa. Ân huệ Thiên Chúa vẫn ban dư đầy. Còn chúng ta chuẩn bị đón rước Chúa như thế nào? Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi mở cho chúng ta cách chuẩn bị đón rước Chúa.

Khi Vua Đavit đang yên ổn trong cửa ấm nhà êm. Ông nhớ đến Thiên Chúa. Ông muốn thể hiện lòng biết ơn của mình bằng việc xây một ngôi đền cho Thiên Chúa ngự. Ông tâm sự với tiên tri Nathan ước muốn của mình. Và ông nhận được sự tán thành của vị tiên tri. Nhưng đó không phải là điều Thiên Chúa muốn. Qua đó, Thiên Chúa nhắc Đavit về thân phận của ông, đồng thời muốn Đavit ý thức đời sống mình cần phải cậy dựa vào ai! Thiên Chúa hứa sẽ giữ gìn Đavit và dòng dõi ông cũng như vương quyền của Vua nếu Vua biết sống trong đường lối và sự tuân phục Thiên Chúa.

Và Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa ấy qua dòng thời gian mặc dầu không phải lúc nào con cháu Đavit cũng trung thành với Thiên Chúa. Chính Đấng Cứu Thế cũng được sinh ra trong chính dòng tộc Vua Đavit. Đấng Cứu Thế ấy đã xuống thế làm người, đã gặp gỡ con người nhờ sự vâng phục của một người phụ nữ.

Thời đức mẹ, ai ai cũng mong đợi Đấng Cứu Thế. Và mỗi người có một cách thế riêng của mình. Mẹ Maria cũng có chương trình riêng của Mẹ để cầu mong Đấng Cứu Thế. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ lời với Mẹ - muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế - Mẹ đã sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng với một tâm hồn khiêm nhường: này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.

Hai tiếng “xin vâng” Mẹ đã dễ dàng thưa, nhưng để sống với tiếng xin vâng ấy, trước mặt Mẹ là một tương lại mù tối. Luật lệ xã hội thời ấy rất khắt khe, làm sao Mẹ có thể giải thích được với mọi người. Gia đình hai bên, hàng xóm và ngay cả người bạn đính hôn sẽ nghĩ gì về mình đây? Mình có đủ sức bảo vệ mạng sống của mình hay không? Còn bào thai kia là Đấng Cứu Thế nữa thì sao?

Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra trong đầu Mẹ nhưng tình yêu Thiên Chúa đã chiến thắng tất cả. Mẹ chấp nhận mọi nguy hiểm và mọi điều xấu nhất có thể xảy đến cho mình vì Mẹ yêu Chúa. Và chính tình yêu ấy Mẹ luôn được Chúa gìn giữ.

Với một tâm hồn khiêm nhường đơn sơ, Mẹ Maria hoàn toàn phó thác trọn vẹn vận mạng của mình trong tay Thiên Chúa. Với tiếng thưa xin vâng hoàn toàn trong thái độ khiêm tốn, tin tưởng và tự do, Mẹ đã đáp lại ơn Thiên Chúa kêu mời. Và Thiên Chúa đã làm đảo lộn lại tất cả những gì con người “toan tính” và mong đợi.

Đấng Cứu Thế giờ đây là một bào thai nhỏ bé nơi cung lòng của một người phụ nữ bình thường. Đấng Cứu Độ nhân loại lại được sinh ra trong cảnh nghèo hèn, đơn sơ. Mầu nhiệm cao cả đã được giấu kín từ ngàn xưa nay được biểu lộ nơi con người đơn sơ khiêm tốn. Theo Thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Roma thì: mầu nhiệm ấy đã được loan báo cho muôn dân, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Nhưng muôn dân chỉ có thể tin và vâng phục khi để tâm hồn mình khiêm nhường hoàn toàn thẳm sâu như tâm hồn Mẹ Maria.

Chờ đón Chúa nhưng Mẹ Maria đã hoàn toàn để tâm hồn mình thẳm sâu hầu ân huệ Thiên Chúa tuôn đổ xuống tràn đầy trên Mẹ. Và Thiên Chúa đã lo liệu cho Mẹ tất cả dù tương lai mịt mù đang chờ đón Mẹ. Cuộc sống của chúng ta cũng không tránh khỏi những khúc quanh mịt mù đen tối. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng hãy học nơi gương Đức Mẹ hôm nay mà biết phó thác trọn vẹn cho Chúa. Càng phó thác ta càng nhận ra thánh ý Thiên Chúa. Đồng thời hãy biết vâng theo thánh ý Người như Vua Đavit xưa. Để chính sự vâng phục của chúng ta chương trình của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống hôm nay.

XIN MẸ DẠY CON HAI TIẾNG XIN VÂNG
Lc 1, 26 - 38

Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật, mọi loài hữu hình và vô hình. Mọi sự đều tốt đẹp và tồn tại trong tốt đẹp, chỉ với một điều kiện là: các thiên thần và loài người luôn biết thờ phượng, kính mến và vâng lời Thiên Chúa.

Ma quỷ và tổ tông loài người đã không vâng lời Thiên Chúa, không thờ phượng kính mến Chúa, nên đã gây ra một sự phản nghịch với Thiên Chúa, một sự hỗn độn giữa các loài, mất trật tự trong chính loài mình, và ngay cả trong chính bản thân mình.

Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế, để giao hoà mọi loài với nhau và giao hoà đất với trời, giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài chuộc lại sự bình an hạnh phúc ban đầu cho mọi loài.

Như vậy, để cứu chuộc nhân loại, Đấng Cứu Thế phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa cách triệt để. Cũng một thể ấy, người mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế cũng phải vâng lời Thiên Chúa cách trọn vẹn. Ngay cả người cha theo luật của Đấng Cứu Thế cũng phải vâng lời Thiên Chúa cách tuyệt đối. Chúng ta có thể thấy rõ, Chúa Giêsu vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi Người cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được…”. Đức Maria thưa với thiên thần: “Nầy tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Thánh Giuse âm thầm chỗi dậy thi hành hết những gì Chúa muốn.

Để chuẩn bị đón nhận Chúa Cứu Thế, thánh Giuse và Đức Maria đều tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Trong những ngày chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, trong ngày Chúa nhật thứ tư mùa Vọng hôm nay, mỗi người chúng ta phải tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Nếu như chúng ta có vấp phải sự bất tuân luật Chúa, chúng ta phải thật lòng sám hối, và nhất quyết không phạm tội. Hơn nữa, chúng ta còn phải trang trí cho tâm lòng chúng ta những bông hoa đẹp là các việc lành, những dầu thơm của các nhân đức, những ánh sáng màu sắc của đức tin, và những nghĩa cử của lòng bác ái .v.v…

Trên tất cả mọi sự, thì đức vâng lời là làm đẹp lòng Thiên Chúa, là hơn mọi lễ vật. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy con biết thưa xin vâng, và biết thi hành thánh ý Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng con xứng đáng đón mừng Chúa Hài Nhi giáng sinh ngự đến cứu chuộc chúng con. Amen.

KHIÊM NHƯỜNG
Lc 1, 26 – 38

Cách đây ít lâu, có một tờ báo có thuật lại chuyện về ông bầu của một đội bóng. Ông là một người rất nổi tiếng. Trong giới thể thao ai cũng biết đến tên của ông. Hôm đó ông cùng với vợ đi nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đưa vợ đi xem chiếu bóng tại một rạp hát trong thành phố. Lúc ấy, trong rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông vừa bước chân vào thì tất cả đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông vẫy tay chào và mỉm cười cùng họ cách khoái chí. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ : “Mình ở xa cách đây cả ngàn cây số, mà ai cũng biết đến mình và kính trọng mình, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô. Chắc là họ đã ngưỡng mộ mình và đã biết mình qua màn ảnh Tivi.

Sau đó, có một người tiến đến bắt tay chào ông. Mặt mày hớn hở, ông nói : “Làm sao ông bạn có thể nhận diện được tôi ?” Người kia trả lời : “Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi chúng tôi thấy ông và vợ ông bước vào rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay sẽ không chiếu phim, nếu không có thêm hai khán giả nữa”. Bấy giờ, ông ấy mới tỉnh ngộ. Ông nói : “Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem chiếu bóng”. Thật là chua chát !

Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy : “Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần”. Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau : “Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường”.

Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại : Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên : - Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.

Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác : nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã…

Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.

Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.

Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng” để xin Mẹ trợ giúp : “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng : hôm nay, tương lai và suốt đời”. Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.

MARIA NÓI LỜI XIN VÂNG
Lc 1, 26 - 38
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng là Chúa nhật cuối cùng dọn mừng đón Chúa giáng sinh. Thực tế mà nói, Chúa nhật này phải gọi là Chúa nhật của Đức Mẹ. Bởi vì, năm nào cũng vậy, Giáo Hội luôn dành riêng Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng để nói đến vai trò hết sức quan trọng của Đức Mẹ. Nếu không có Đức Mẹ, không có lời xin vâng của Mẹ theo ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Chắc chắn, lịch sử cứu độ đã bước vào một khúc ngoặt khác.Hôm nay, gần đến lễ Giáng Sinh, Giáo Hội khẩn khoản kêu mời nhân loại, con người hướng về mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa. Mầu nhiệm đã được các ngôn sứ loan báo từ bao ngàn năm và cuối cùng được thực hiện nơi chính cung lòng trinh khiết của Đức trinh nữ Maria, một người nữ tử Sion, một cô thiếu nữ hiền lành, đạo đức và hết mực thánh thiện :” Trinh nữ Maria đã cưu mang Con Thiên Chúa bởi phép Chúa Thánh Thần “ và Mầu nhiệm cứu độ đã đến trần gian nơi Hài Đồng Giêsu…

Ở đây dựa theo Giáo lý Công Giáo chúng ta phác họa vài nét cơ bản về Mẹ Maria để qua đó chúng ta hiểu Mẹ là ai ? Đức Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế, người đã sinh ra Chúa Giêsu. Đức Mẹ Maria thuộc dòng dõi vua Đavít, thân sinh người là ông thánh Gioankim và thân mẫu người là bà thánh Anna. Theo như truyền thống kể lại thì hai ông bà đã già chỉ có Maria là người con duy nhất. Maria sinh ra và lớn lên tại làng Nagiarét, trong xứ Galilêa ở mạn Bắc nước Palestina. Khi Maria đến tuổi thành hôn thì kết hôn với một người tên là Giuse cũng thuộc chi họ vua Đavít, làm nghề thợ mộc ở Nagiarét. Chính trong thời kỳ Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, thì thiên thần Gabriel đã được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Maria cho cô biết là cô sẽ thụ thai và sinh ra Đấng Cứu Thế. Và tuy đã đính hôn nhưng Maria đã khấn giữ mình đồng trinh, nên thưa lại cùng vị Thiên sứ rằng : “ Việc đó làm sao thực hiện được vì tôi không biết đến người nam ?“. Nhưng Thiên sứ đã giải thích cho Maria biết là cô đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần chứ không theo thói thường nhân loại, nên sinh con mà cô vẫn còn đồng trinh. Lúc ấy Maria mới thưa lại cùng Thiên sứ :” Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.Chính lúc ấy Ngôi Hai đã xuống đầu thai trong lòng trinh nữ Maria.

Mẹ Maria hoàn toàn được đắc sủng với Thiên Chúa . Vì được tuyển chọn, Mẹ Maria đã được những ơn huệ cao quí mà bất cứ người nào trên trần gian này cũng không có được. Bởi vì là người được Thiên Chúa cất nhắc làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên ngay khi Mẹ Maria được cưu mang trong cung lòng bà Thánh Anna, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi tì ố, bợn nhơ của tội lỗi. Đây là mầu nhiệm: "Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn vô nhiễm nguyên tội “. Chính vì thế, Thiên Chúa luôn gìn giữ sự thánh thiêng của Mẹ, gìn giữ Mẹ không vương bất cứ một chút bợn nhơ của tội lỗi trong suốt cuộc đời của Mẹ. Trong những tháng cưu mang Chúa Giêsu, Thiên Chúa luôn tuôn đổ hồng ân đặc biệt xuống trên Mẹ để Mẹ nhận ra rằng Chúa Giêsu đang sống trong Mẹ. Mầu nhiệm này thật lạ lùng đến nỗi thánh sử Luca đã nhận xét về Mẹ Maria sau cuộc phục sinh của Chúa Giêsu rằng : "Mẹ Maria đã ghi nhớ tất cả ,và suy đi nghĩ lại trong lòng “ ( Lc 2, 19).

Có thể nói đây là biến cố hết sức kỳ diệu Chúa đã làm cho Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, Chúa cũng làm cho nhân loại qua chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa đã ban cho Mẹ những đặc ân cao quí nhất, Mẹ đã đem Chúa Giêsu cho nhân loại và nhân loại đã lãnh nhận ơn cứu rỗi nơi Chúa Giêsu. Đó là mầu nhiệm tuyệt vời Thiên Chúa đã trao ban cho Mẹ Maria và trao ban cho con người, cho thế giới, cho loài người. Sự cưu mang Chúa Giêsu và sinh ra Chúa Giêsu bởi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria là một ân sủng lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho nhân loại, cho thế giới, cho từng người chúng ta.

Mẹ Maria không chỉ nói lời xin vâng một lần với Thiên Chúa, nhưng lời xin vâng của Mẹ là lời xin vâng bao trùm trọn cả kiếp người của Mẹ. Mẹ đã nói lời xin vâng làm theo ý Thiên Chúa ngày truyền tin, nhưng lời xin vâng của Mẹ đã đi theo suốt đời của Mẹ và điều vô cùng ý nghĩa và là của lễ sống động nhất, đó là Mẹ đã chấp nhận đứng dưới chân Thập Giá để dâng Con của Mẹ cho Đức Chúa Cha.

Cuộc đời của người môn đệ Chúa, của tất cả chúng ta sẽ vô cùng ý nghĩa nếu biết sống trọn theo ý Chúa bằng việc giữ Đạo và sống Đạo. Chúng ta sống phải như thánh Phaolô : “ Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô “ hoặc “ Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết nói lời xin vâng như Mẹ trong suốt cuộc lữ hành trần thế của chúng con. Amen.

VUI LÊN HỠI ĐẤNG ĐẦY ÂN SỦNG
Lc 1, 26 - 38
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau khi đã ngưng nghỉ nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui “Gaudete” vì những gì đã đạt được, nay lễ Giáng sinh đã gần kề, tâm hồn chúng ta càng rạo rực hơn, nên chúng ta phải làm hết sức những gì có thể để hưởng trọn vẹn niềm vui ngày Chúa giáng sinh.

Khởi đầu Mùa Vọng, chúng ta đã nói lên đặc tính Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, đợi chờ, mùa của cầu nguyện, hoán cải nội tâm, nhưng không thể không vui, vì niềm vui là đặc tính cơ bản của mùa thánh thiêng này. Lý do rất rõ ràng, vui vì : "Chúa đã gần đến" (Phil 4,5).

Lời đầu tiên Sứ Thần Gabriel cất lên chào Đức Trinh Nữ Maria chất chứa niềm vui lớn lao khi mời Mẹ vui lên: "Mừng vui lên, vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng! "(Lc 1, 28) Lời chào trên có liện hệ mật thiết tới sự giáng lâm của Đấng Cứu Thế. Trước khi toàn dân được nhận biết tin vui, thì Đức Maria là người đầu tiên được báo trước (x. Lc 2,10); Mẹ đã tham dự vào niềm vui ấy với cách thế lạ thường. Nơi Mẹ, niềm vui của Israel được viên mãn ; với Mẹ, hạnh phúc thời messia tròn đầy. Niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria là niềm vui đặc biệt của dân Israel "còn sót lại" (Is 10,20s), những người nghèo, những người đang chờ đợi ơn cứu rỗi của Thiên Chúa và những người kinh nghiệm về lòng trung thành của Israel.

Chúng ta cũng thế, để tham dự vào lễ Giáng sinh với niềm vui ngập tràn, điều cần thiết là phải khiêm nhường, đón rước Đấng Cứu Thế với trọn niềm tin như lời Chân phước Phaolô VI Giáo hoàng nói : " Tất cả các tín hữu, khi sống tinh thần Mùa Vọng theo phụng vụ, bằng việc nghĩ về tình yêu khôn tả trong việc đón chờ Con của Người Mẹ Trinh Nguyên này, được mời gọi lấy Mẹ làm mô phạm để dọn mình gặp gỡ Chúa Cứu Thế là Đấng phải đến. Họ cần phải “tỉnh thức nguyện cầu và hân hoan … ngợi khen" (Tông Huấn Việc Sùng Kính Đức Trinh Nữ Maria của Chân phước Phaolô VI, số 4).

Hân hoan vì Thiên Chúa ở giữa loài người

Khi đặt mầu nhiệm Nhập Thể vào trong Mùa Vọng, Giáo hội nhấn mạnh đến thời điểm quan trọng của mầu nhiệm Nhập Thể và cứu chuộc.

Thiên Chúa đến "Cắm lều" trong dân Israel, chở chẻ Hòm Bia Giao ước Lời Thiên Chúa, trong suốt hành trình trong sa mạc (x. Ds 9, 17). Vào năm 598 trước Chúa Giêsu giáng sinh, Giêrusalem bị thất thủ, hòm bia mất tích, hòm bia chứng tỏ sự gần gũi Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Sự gần gũi ấy nay được tỏ hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ Maria, một người nữ trong chúng ta, đã được Sứ Thần cho biết "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ" (Lc 1, 35). Thật là vui khi Thiên Chúa mặc lấy xác phàm ở giữa chúng ta.

Điều mà tưởng chừng như không thể, nay được biểu lộ như lời Sứ Thần nói :"Không có việc gì mà Chúa không làm được " (Lc 1, 37). Cả Đức Maria và Thiên Thần đều đồng ý với nhau về sự hiển nhiên này của đức tin. Lời trên đã được tuyên phán trong sách Sáng Thế khi nói về sự ra đời của Isaac " Thì nào có gì quá ư huyền diệu đối với Thiên Chúa ? " (St 18, 14). Nay nói về sự sinh hạ của Chúa Giêsu để mọi người nghe mà hiểu về ơn cứu độ con người là có thể (x. Lc 18, 27). Sự sinh hạ của Con Thiên Chúa giữa loài người và sự hạ sinh chúng ta, một nhân loại mới là công trình của Chúa Thánh Thần.

Đức Maria, Người Mẹ Trinh Nguyên

Trong giây phút đón nhận thánh ý Thiên Chúa, do quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria đã cưu mang Chúa Giêsu bởi Chính Thiên Chúa. Con Thiên Chúa bắt đầu sự sống trong cung lòng Mẹ. Chúa Giêsu là người thật, nói theo ngôn ngữ biểu tượng của Kinh thánh là tạo nên từ đất; nhưng Người đến từ trời cao : "Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao " (Lc 1, 35).

Bởi lẽ đó, đang khi "rất bối rối", Đức Maria đã hỏi: "Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam! (Lc 1,34). Trong sự đơn sơ của mình, Mẹ không hoài nghi quyền năng của Thiên Chúa nhưng muốn hiểu hơn ý định của Chúa hầu sống trọn ý Chúa. Thiên Chúa trông chờ tiếng "Xin vâng" từ Mẹ để thực hiện công trình của Người. Tiếng "Xin vâng" bao hàm cả tình mẫu tử lẫn sự đồng trinh. Mẹ vừa muốn vinh quang Thiên Chúa hiện thực nơi mình vừa muốn Người Con sẽ sinh ra hoàn toàn là quà tặng ân sủng.

Lúc Mẹ thưa "Xin vâng", lời thưa của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Thánh Bernarđô kêu lên : " Ôi lạy Mẹ, Mẹ là đấng cứu chuộc chúng con. Vì khi Mẹ thưa xin vâng, lập tức chúng con được giải thoát. Toàn thể địa cầu trông đợi lời xin vâng của Mẹ. Lời ấy sinh ra Ngôi Lời Hằng Hữu. Thiên Chúa muốn nghe Mẹ tự do trả lời, Mẹ "đầy ân sủng", khi Mẹ thưa : "Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền ! " (Lc 1, 38). Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28).

Hôm nay chúng ta không thể quên khuôn mặt đặc biệt của thánh Giuse, vì cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều đã sống một cách thật mãnh liệt duy nhất thời gian chờ đợi và chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh với niềm vui thiêng thánh.

Thánh Giuse người công chính

Thánh sử Luca trình bày Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria như là vị hôn thê của "một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít " (Lc 1,27). Nhờ qua thánh nhân, Trẻ Giêsu được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là "Con của Vua Ðavít".

Thánh Giuse là mẫu gương của người "công chính" (Mt 1,19); trong sự hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, thánh Giuse tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa.

Vì thế, trong những ngày trước lễ Giáng Sinh, thật là thích hợp hơn bao giờ hết, để thiết lập một cuộc đối thoại thiêng liêng với Thánh Giuse, với Mẹ Maria, xin các ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm cao cả Ðức Tin này. Amen.

XIN VÂNG
Lc 1, 26 - 38
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nhật IV Mùa Vọng luôn được coi như Chúa nhật của Đức Mẹ. Quả thực, Mẹ Maria giữ một vai trò rất lớn lao, rất quan trọng trong lịch sử cứu rỗi, đến nỗi, nếu giả thiết không có Đức Mẹ, chắc chắn nhân loại đã khác. Do đó, Mẹ Maria được phụng vụ giới thiệu là nguồn ơn thiêng vô tận của Thiên Chúa. Mẹ là mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.

Mùa Vọng đặc biệt trong tuần cuối cùng trước khi mừng đại lễ Giáng Sinh. Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm Mẹ và học hỏi nơi Mẹ lời xin vâng tuyệt đối luôn làm theo ý Thiên Chúa. Mầu nhiệm Nhập Thể giúp nhân loại, giúp mỗi người chúng ta chìm sâu trong lòng yêu thương nhân từ của Thiên Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa không muốn cho Con của Ngài đến trần gian này một cách khác lạ, một cách phi thường, nhưng Ngài đã chọn cho con của Ngài cách thế thông thường để sinh ra. Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người. Vâng, sau tiếng xin vâng, Ngôi Lời đã ngự trong cung lòng đức trinh nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần.Sự huyền nhiệm nhất đó là Ngôi Lời đã làm người. Đức Giêsu đã được sinh ra nơi hang đá Bêlem do cung lòng trinh khiết của Mẹ Maria. Ngài là người, mãi mãi là người, cư ngụ giữa loài người, Ngài đã sống kiếp sống loài người như mỗi người chúng ta chỉ trừ tội lỗi.

Con Thiên Chúa làm người để cho nhân loại hiểu được giá trị của vũ trụ, của trái đất chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên, nhưng cũng vì trái đất mà Con của Ngài đã tới để cư ngụ. Đức Giêsu đã làm người để dạy con người biết yêu trái đất, biết yêu vũ trụ, biết quí trọng tất cả những gì Ngài đã dựng nên. Chúa làm người để dạy chúng ta, dạy con người, dạy mỗi người biết yêu cuộc sống, yêu cuộc đời của mình.Với lời xin vâng của Mẹ, Con Thiên Chúa đã làm người để Ngài dạy con người biết sống yêu thương, hiệp nhất với nhau, biết yêu như Chúa đã yêu chúng ta, yêu mỗi người chúng ta. Mẹ đã tin yêu sống trọn lời xin vâng cho đến khi đứng dưới chân thập giá. Đó là lời xin vâng tuyệt đối, lời xin trọn cả kiếp người.

Mùa Vọng khơi lên trong chúng ta niềm tin yêu, phó thác. Mùa Vọng đốt lên trong lòng chúng ta niềm hy vọng. Bởi vì qua cung lòng của Đức Mẹ, Thiên Chúa đã làm một việc kỳ diệu là cho Con Ngài sinh hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Mẹ thật xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ toàn thể nhân loại.

Mùa Vọng chiêm ngưỡng Mẹ để nhận ra chúng ta còn khiếm khuyết nhiều lắm nếu không có ơn Chúa, con người sẽ không đứng vững, con người sẽ không bền chặt tin yêu. Mùa Vọng hướng chúng ta tới Mẹ và qua Mẹ chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã chọn Mẹ giữa muôn vàn người nữ để làm Mẹ Chúa Giêsu và làm Mẹ nhân loại. Hướng về Mẹ, chúng ta cũng cảm tạ Thiên Chúa, bởi Ngài đã chọn thánh cả Giuse làm bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria, nhờ thánh Giuse, Mẹ Maria được bảo vệ trước mặt luật pháp và Chúa Giêsu được dưỡng nuôi, giữ gìn.

Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng là Chúa nhật đặc biệt của Đức Mẹ, chúng ta hãy chạy đến với Đức Mẹ, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta được sống an bình. Mẹ đang cưu mang Chúa và ngày đại lễ Giáng Sinh, chúng ta được cung chiêm, thờ lạy Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, được Mẹ sinh ra, đặt nơi máng cỏ…Sự an bình là Đức Kitô. Các thiên thần sẽ hát vang trong đêm Giáng Sinh: ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời.Bình an dưới thế cho người thiện tâm “.

Xin hãy cùng Mẹ Maria ca ngợi Thiên Chúa: ” Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa,

Lòng trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa Đấng cứu chuộc tôi…Người đã giữ lời hứa với tổ phụ chúng ta…Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abraham và với tất cả dòng dõi của Ông tới muôn đời
“ ( Lc 1, 46-47.54.55 ).

XIN VÂNG NHƯ TRINH NỮ MARIA ÐỂ CHỜ ÐÓN CHÚA RA ÐỜI
Lc 1, 26 - 38
LM Trần Bình Trọng

Vào thời mà ngay trước Ðấng cứu thế giáng sinh, thì dân chúng đã chán ngấy phong hoá suy đồi trong xã hội Pa-lét-tin. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự sống đời buông thả. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ bị đế quốc La mã cai trị. Vì thế mà dân chúng mong đợi Ðấng cứu thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng thời bấy giờ thì họ mong đợi vị cứu tinh đến giải thoát họ khỏi cảnh lầm than, đô hộ, chứ không hẳn là giải thoát họ khỏi tội lỗi. Còn phụ nữ Do thái nói chung thì mong được làm mẹ đấng cứu thế. Riêng trinh nữ Maria lại khác nữ giới thời bấy giờ, không nuôi tham vọng đó, mặc dầu có cơ hội vì đã đính hôn với ông Giuse.

Luật đính hôn của Do thái thời bấy giờ rất là nghiêm túc. Ðã đính hôn có nghĩa là đã cưới hỏi theo pháp lý. Tuy nhiên trinh nữ Maria qua một sự thoả thuận kín đáo với ông Giuse, như một lời khấn, quyết giữ mình đồng trinh. Chẳng thế mà khi sứ thần Gáp-ri-en đến thỉnh nguyện trinh nữ chấp nhận địa vị làm mẹ Ðấng cứu thế, thì trinh nữ tỏ mối quan tâm về lời hứa của mình: Ðiều đó xẩy đến thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Ðiều đó chứng tỏ trinh nữ yêu quí đức đồng trinh như thế nào! Chỉ khi sứ thần bảo đảm với trinh nữ rằng việc trinh nữ thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh linh thì trinh nữ mới chấp nhận địa vị làm mẹ Ðấng cứu thế. Còn việc thánh Giuse từ bỏ Ðức Maria ra đi cách kín đáo, khi nhận ra Bà đang mang thai, cũng chứng tỏ rằng hai Ông Bà không sống với nhau như vợ chồng.

Phúc âm hôm nay ghi lại trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đáp trả lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa. Trinh nữ Maria chấp nhận lời Chúa truyền, qua miệng sứ thần Gáp-ri-en để mang thai, mặc dù không hiểu sự việc xẩy ra như thế nào, vì trinh nữ đã khấn hứa giữ mình đồng trinh. Mặc dù không hiểu, nhưng trinh nữ đã tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa, để chấp nhận theo thánh ý Chúa: Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói (Lc 1:38). Bằng việc chấp nhận thánh chỉ của Thiên Chúa, nên Con Một Thiên Chúa, đã được thụ thai cách huyền diệu trong lòng trinh nữ. Giả sử trinh nữ Maria không ưng thuận, thì điều gì sẽ xẩy ra cho nhân loại? Và đời ta sẽ ra sao bây giờ? Ôi, hồng phúc thay lời xin vâng muôn thuở!

Khi vua Ðavít đã ổn định tình thế quân sự, chính trị và xà hội trong nước, mà nhà vua thì được ở nhà gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì lại ở trong lều vải (2 Sm 7:2), nên nhà vua có ý định xây nhà để giữ Hòm Bia Thiên Chúa. Hòm Bia được coi là biểu tượng của giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và nhà Ít-ra-en vì Người đã chọn họ làm dân riêng và ban giới luật cho họ. Vì thế Hòm Bia cũng được coi là biểu tượng của sự hiện diện của Giavê. Tuy nhiên Thiên Chúa lại có chương trình khác. Chương trình của Thiên Chúa nhắm tới thời gian mà một người trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en (Is 7:14). Chương trình đó được thực hiện khi trinh nữ Maria chấp nhận thụ thai Ðấng Em-ma-nu-en (Mt 1:23). Vì thế mà trong Kinh cầu Ðức Mẹ, Giáo hội coi trinh nữ Maria chính là Hòm Bia của Thiên Chúa như khi ta kêu cầu: Ðức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy, vì trinh nữ đã cưu mang Ngôi hai Thiên Chúa trong lòng mình. Chương trình của Thiên Chúa đã được ghi lại trong thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn La mã: Theo lệnh của Thiên Chúa, Ðấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin và vâng phục Thiên Chúa ( Rm 16:26).

Thời bấy giờ, trinh nữ Maria cũng nóng lòng mong đợi Ðấng cứu thế đến như dân Do Thái nói chung, như những phụ nữ Do thái riêng. Ðặc biệt, trinh nữ mong đợi Ðấng cứu thế sinh ra từ trong dạ mình. Vậy lòng mong đợi mà người tín hữu cần có là lòng mong đợi của trinh nữ Maria mang thai. Ðàn ông và những người đàn bà không lập gia đình thì không có được kinh nghiệm mang thai. Ðể cho người ta có được ý niệm phần nào về việc mang thai, có một hãng xưởng kia chế tạo một túi bị với chiều kích theo đường cong của bụng mang thai, mà khi đeo vào bụng, thì người ta cũng đi đứng, nằm ngồi tựa hồ như người đàn bà mang thai. Mặc dù không có kinh nghiệm mang thai hay không đeo bị vào bụng, người ta cũng có thể tưởng tượng ra phần nào, trinh nữ Maria nóng lòng chờ đợi Con mình sinh ra như thế nào. Cũng đợi chờ chín tháng mười ngày như những người đàn bà mang thai khác.

Việc trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa, tin tưởng vào lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa và cộng tác với ơn Chúa phải giúp ta làm sao để sửa soạn đón mừng Chúa đến. Việc trinh nữ thụ thai cách kỳ diệu mà không có sự cộng tác của người nam, phải giúp ta nảy sinh ra cảm giác lạ lùng và kính sợ. Không may sống trong thời đại kỹ thuật khoa học, con người đã mất đi cảm giác đó, nghĩa là mất đi cảm giác kính sợ, ngạc nhiên và lạ lùng trước những quyền lực siêu nhiên và cao vời. Ðể bù lại cảm giác mất mát đó, ta cần tiếp xúc với những gì Chúa đã làm trong đời sống cá nhân và trong thế giới loài người.

Như Mẹ Maria, ta cần ghi nhớ và suy niệm (Lc 2:19) những sự việc Chúa đã thực hiện trong đời sống ta. Ðức tin của Ðức Maria vào lời Chúa, phải có sức linh ứng, giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và thực thi ý Chúa. Lời Chúa không phải là điều gì thuộc quá khứ, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại. Lời Chúa là lời hằng sống nên phải có sức biến đổi tâm hồn và tác động đời sống ta, vì Chúa là Ðấng hằng sống và chân thật.

Lời cầu nguyện xin ơn biết mở rộng tâm hồn đón chờ Chúa đến:

Lạy Ngôi hai Thiên Chúa hằng sống.
Ðấng hiện hữu từ muôn thuở.
Chọn nhập thể trong lòng một trinh nữ.
Xin khơi dậy trong con một cảm giác ngạc nhiên lạ lùng.
Một tâm hồn mong mỏi đợi chờ ngày Chúa Giáng sinh.
Xin dạy con dọn cho Chúa một máng cỏ trong tâm hồn.
Kết bằng việc cầu nguyện, sám hối, hi sinh và bác ái.
Ðể sưởi ấm tâm hồn Chúa. Amen.

TÌNH CHÚA MUÔN NGÀN ĐỜI
Lc 1, 26 - 38
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 “Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời. Qua bao nhiêu thời tình Chúa chẳng vơi…”. Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội thánh dẫn đoàn tín hữu dần đến đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, nay được biểu lộ ( x. Rm 16,25-26 ): Ta sẽ yêu thương con người đến muôn đời và lòng thành tín của Ta được thiết lập trên cõi trời cao.

Sự thành tín là một đặc tính tất yếu của tình yêu đích thực: Trong bất cứ kiểu loại tình yêu nào dù là tình phu thê, tình mẫu tử, phụ tử, tình huynh đệ, tình quê hương, tình đồng chí, đồng bào…tất thảy đều đòi hỏi sự tín thành, thuỷ chung. Tình yêu có thể xuất hiện dưới nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau, nhưng không thể chấp nhận sự đứt gánh nửa chừng hoặc thay lòng đổi dạ kiểu đổi trắng thay đen.

Dòng lịch sử ơn cứu độ mạc khải cách rõ nét tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa là tình yêu ( 1Ga 4,8 ). Dù cho con người có phản bội nhưng Thiên Chúa mãi luôn tín trung vì Người không thể chối chính Người ( x.2Tm 2,12-13 ). Có khi, có thời, Người dìm ta xuống đáy vực sâu hoặc để ta long đong phận khổ, nhưng người lại kéo ta lên, ủi an, vổ về như mẹ hiền âu yếm con thơ. Sau khi sửa trị chúng ta vì tội lỗi chúng ta, lòng Người lại bồi hồi thổn thức, và Người lại tỏ lòng xót thương ( x.Gr 31,16-20 ).

Lời hứa ban ơn cứu độ từ thưở tổ tiên loài người phản bội đã dần thành hiện thực theo dòng thời gian. Lịch sử ơn cứu độ đã khai mở và khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời Người đã hứa tự ngàn xưa là sai chính Con Một vào trần gian, thực thi công trình cứu độ. Hứa ban cho Đavít một triều đại vĩnh tồn thì Thiên Chúa đã giữ lời. Một chồi non từ nhà Đavít đã mọc lên và “Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” ( Lc 1, 33 ).

Thiên Chúa không hề bỏ ta: một nền tảng căn bản của niềm cậy trông. Trong phận người, đặc biệt khi đã trưởng thành thì hầu như ai cũng đã từng trải qua ít nhiều thăng trầm của của cuộc sống. Có thể nói quảng thời gian an bình, hạnh phúc thật vắn vỏi so với dòng đời gian truân, vất vả. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hiện thực này: đời người mạnh giỏi lắm là bảy, tám mươi năm mà toàn là gian lao, khốn khổ ( x. Tv 90,10 ). Sự gian truân, vất vả của cuộc đời chắc chắn có góp phần rèn luyện nhân cách con người, đồng thời giúp con người thăng tiến và đạt đến thành công. Tuy nhiên, nó cũng có thể làm cho nhiều người chán nản, buông xuôi. Nhiều sự ở đời này vẫn thường mang tính lưỡng diện.

Dưới nhãn quan đức tin, khi ta ở trong tình trạng khó khăn, thất bại, khi ta lâm vào những nghịch cảnh, nhất là khi ta ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi thì chước cám dỗ ngã lòng, thất vọng luôn có đó. “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại làm… Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ? ( Rm 7,19-24 ).

Thiên Chúa luôn tín trung với lời Người đã hứa. Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Có được xác tín này thì niềm cậy trông sẽ có đất đâm chồi nẩy lộc. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta.” ( Rm 5,5-6 ).

Không một ai là không có thể được cứu thoát: Với loài người thì rất nhiều trường hợp dường như là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể ( x.Lc 1,37; Mt 19,26 ). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi ( x. 1Tm 2,3-4 ). Dù chỉ một con đi thất lạc, Chúa cũng bỏ chính mươi chín con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc đàn. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi phú ban Con Một, thì còn gì mà Người đã không làm cho chúng ta, cho từng người chúng ta ?

Mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng không phải tất cả đều nhận được tình yêu của Người. Khi con người cố tình từ chối tình yêu của Thiên Chúa hoặc khi con người ngã lòng thất vọng, không còn tin vào tình yêu của Thiên Chúa thì Người đành chấp nhận chịu cảnh “bất lực”. Tình yêu giả thiết sự tự do đáp trả, cho dù là bé nhỏ hay chỉ là mặc nhiên. Nhà của Đavit, tức vương quyền của ông được Thiên Chúa hứa cho trường tồn là nhờ ông đã có tấm lòng muốn xây cho Thiên Chúa một “cái nhà”. Để thực thi công trình cứu độ cho loài người, Thiên Chúa cũng đã chờ đợi sự đáp trả của một cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Chúa Kitô khi sinh thời đã khẳng định chân lý này: Mọi thứ tội đều có thể được tha, ngoại trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần ( x.Mt 13,32 ).

Xin trích ghi ca từ của một bản thánh ca được gợi hứng bởi tâm tình của thánh Tông đồ dân ngoại: “ Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan, hững hờ. Vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. Một ngày nào mà ta chối Ngài, thì Ngài phải đành lòng chối ta. Cho dù ta bất tín, dù ta phản bội, thì Chúa vẫn cứ trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình.”( x.2Tm 2,12-13 ). Tuy nhiên không phải vì ỉ lại vào lòng tín trung của Thiên Chúa mà chúng ta trì hoản sự hoán cải. Tình Chúa thì muôn ngàn đời, nhưng cuộc đời chúng ta thì có hạn, nhất là chúng ta không biết cái hạn ấy kết thúc vào giờ nào, lúc nào. Đừng chần chờ, đừng lần lữa, hãy đáp trả tình Chúa yêu ngay hôm nay, lúc này!

KHIÊM NHƯỜNG ĐÓN NHẬN
Lc 1, 26 - 38
+ TGM Giuse Ngô quang Kiệt

Trương Lương là một tướng tài thời Hán Sở tranh hùng. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: “ Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta”. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: ‘Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta”. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: “Thằng bé này dạy được đây”. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp đựoc thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.

Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa “Xin vâng”, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa “Xin vâng”, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn ? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn ? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân ? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên chúa.

THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM DÂN NGƯỜI
Lc 1, 26 - 38
Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Có một người rất đạo đức và thánh thiện. Ông ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong cuộc đời. Và rồi, Thiên Chúa đã nhìn đến lòng thành của ông, Ngài đã nói cùng ông qua giấc chiêm bao: “Ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ngươi”. Ông quá đỗi vui mừng. Ông đã bắt đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui và phấn khởi. Ông chuẩn bị phòng ốc thật sạch sẽ. Ông chuẩn bị bữa ăn thịnh soạn để tiếp đón Chúa. Sau đó, ông ra đến tận cổng để chờ đón Chúa. Và khi ánh bình minh ló rạng, ông hồi hộp chờ đón Chúa, nhưng không thấy Chúa, ông chỉ thấy một ông lão ăn xin, rách rưới, tả tơi. Người ăn xin đến van xin ông chút cơm bánh lót dạ, nhưng ông đã xua đuổi người ăn xin, vì ông đang chờ vị thượng khách. Và rồi, tiếp sau là một người lữ hành, lỡ bước đang cần sự trợ giúp của ông, nhưng ông vẫn từ chối. Cho đến khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi, ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu, bệnh tật đến van xin lòng tốt của ông, thế nhưng, ông vẫn từ chối giúp đỡ. Ông thất vọng, vì cả ngày chờ đợi mà không thấy Chúa đến. Ông thầm trách Chúa đã không giữ lời hứa với ông. Thế nhưng, Chúa lại nhỏ nhẹ trách ông: “Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần, nhưng đều bị ngươi khước từ”.

Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh là người đầu tiên đón Chúa đến viếng thăm. Người thiếu nữ ây tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời côi. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.

Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là “sinh vô gia cư, chết vô địa táng”. Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phương thu thuế và gái điếm.

Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.

Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giê-su là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen

KHIÊM HẠ ĐÓN NHẬN MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
Lc 1, 26 - 38
Anmai CSsR

Đa-vít - vị vua nổi tiếng trong Thánh Kinh Cựu Ước mà ít nhiều gì chúng ta đều được nghe nói về ông. Điểm son và điểm dễ nhất về hình ảnh của vị vua mà có người gán cho ông cái tên dễ thương nữa là vua thánh Đa-vít. Vì sao người ta lại gán cho ông cái tên này ? Vì lẽ ông quá sức tội lỗi, ông đã muốn cưới bà Bát Sê-va bằng cách giết U-ri-gia chồng của bà nhưng sau khi ông nghe lời tuyên sấm của Nathan, ông đã thay đổi cuộc đời bằng cách ăn chay, cầu nguyện và xin Đức Chúa – Chúa của ông tha lỗi cho ông.

Bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe xong chúng ta cũng nghe Đức Chúa đã phán với Nathan vài điều để Nathan nói lại với vua Đavit "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao ? Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền" (2 Sm 7, 8-11a)

Lời tuyên sấm này Đức Chúa muốn nói với Đavít rằng Ngài sẽ thiết lập cho Đavít một dòng dõi và dòng dõi ấy sẽ được vững bền với vương quyền của dòng dõi ấy. Đức Chúa còn cam kết thêm: Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi. (2 Sm 7, 8-11b)

Và chúng ta cũng nên nhìn lại thái độ, tâm tư của vị vua đặc biệt này qua trang sách Samuel: Vua Đa-vít vào ngồi chầu trước nhan ĐỨC CHÚA và thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con người, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng? Đa-vít còn nói được gì thêm với Ngài ? Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng! Vì lời Ngài đã phán và theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công trình vĩ đại này, để làm cho tôi tớ Ngài được biết. Vì thế, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. Dưới đất có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho khuất mắt dân mà Ngài đã cứu chuộc từ Ai-cập về cho mình. Ngài đã lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi mãi và người ta sẽ nói: "ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa thống trị Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài. Thật vậy, lạy ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. Vậy giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan Ngài. Bởi vì, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi." (2 Sm 7, 18-29)

Qua lời cầu nguyện đơn sơ trên đây của Đavit ta thấy Thiên Chúa quyền năng đã làm những điều kỳ diệu trên con người khiêm hạ của Đavit. Nếu Đavit không khiêm hạ, Đavit sẽ không nghe lời tuyên sấm của Nathan để quay đầu trở về với Thiên Chúa. Biết mình yếu đuối, biết mình tội lỗi nhưng Đavit đã quay đầu trở lại với Đức Chúa để rồi Đức Chúa đã tin tưởng, đã giao phó, đã thiết lập cho ông một dòng dõi mang tên ông.
Một lần kia ông đã tâm sự với Chúa:

Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!
Đường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu;
hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.

(Tv 131, 1-3)

Hình ảnh của một người khiêm hạ trong Cựu Ước thật đẹp, thật dễ thương. Nhìn trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ thật dễ thương. Mẹ như là cùng đích, như lẽ sống của cuộc đời con để rồi khi con nép mình vào lòng Mẹ con sẽ cảm thấy không còn bận tâm, không còn lo lắng điều gì nữa.

Con người, vốn mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo nên đã đánh mất đi tình yêu, lòng mến, sự che chở, sự bao bọc, sự che chở của Thiên Chúa là Cha, là Chúa của mình. Sự kiêu ngạo ấy đã trải dài suốt lịch sử cứu độ, suốt hành trình về Đất Hứa.

Thời Tân Ước, tưởng người ta nhận thấy bài học chua xót, cay đắng từ sự kiêu ngạo để tỏ lòng khiêm hạ trước Thiên Chúa nhưng không. Chúng ta thấy người Do Thái vẫn cao ngạo, vẫn không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, tình thương xót bao la của Ngài trên cuộc đời của họ. Đức Trinh Nữ Maria, là người nữ Do Thái mới. Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ đã đến trần gian này với lòng khiêm hạ đến cực độ. Mẹ là hình ảnh đối lập với Eva xuẩn động ngày xưa. Eva đã đi tìm cho mình vị trí bằng Thiên Chúa để rồi phạm tội ăn trái cấm. Eva xưa đã cao ngạo trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Không chỉ một mình mình phạm tội mà Eva còn rủ chồng mình cùng chung số phận như vậy. Mẹ Maria hoàn toàn sống khiêm hạ, sống vâng theo Thánh Chúa trên cuộc đời Mẹ. Nếu như Mẹ cũng cao ngạo như những người Do Thái chắc có lẽ Mẹ cũng sẽ chẳng đón nhận được mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể trong lòng Mẹ.

Trang Tin mừng theo Thánh Luca mà chúng ta vừa nghe thuật lại thái độ, tâm tư, tấm lòng khiêm hạ của Mẹ. Quá choáng ngợp với ơn của Thiên Chúa qua miệng sứ thần, Mẹ với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."

Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria lặng lẽ thưa "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."

Mẹ Maria khiêm hạ để rồi Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm Nhập Thể vĩ đại cho Mẹ. Thiên Chúa vẫn thích hiện diện nơi những tâm hồn khiêm hạ. Chỉ có những ai khiêm hạ, những ai tin mới thấy được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các thánh tông đồ xưa là những người tạm gọi là đầu tiên tin Chúa và đã rao giảng mầu nhiệm ấy. Sau khi tin vào Chúa thì các môn ra đi loan báo Tin mừng như Đức Maria vậy. Sau khi đón nhận mầu nhiệm Nhập Thể nơi cung lòng của mình, Mẹ đã đi loan báo Tin mừng ấy, không chỉ loan báo mà Mẹ còn hành động cụ thể bằng cách chia sẻ niềm vui cho bà chị họ. Các môn đệ cũng loan báo Tin mừng bằng cách hy sinh cả mạng sống của mình. Ra di trong hân hoan, ra đi trong hạnh phúc vì có Chúa ở cùng.

Trong niềm hân hoan ấy, Thánh Phaolô tông đồ đã gửi tâm thư của mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta vừa nghe: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa”. (Rm 16, 25-27)

Hôm nay, qua các lời ngôn sứ từ Nathan loan báo cho Đavit về dòng dõi mà Thiên Chúa thiết lập trên ông đến lời sứ thần loan báo mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ chúng ta thấy điểm chung hay nói đúng hơn điểm son nơi hai nhân vật điển hình ấy chính là sự khiêm hạ. Biến cố Emmanuel Nhập Thể mà chúng ta sẽ mừng trong vài ngày nữa cũng chỉ tỏ lộ nơi những con người nghèo, những con người nhỏ bé như những mục đồng nghèo ở cái làng Belem năm nao.
Đứng trước một Thiên Chúa toàn năng, danh Người là Thánh, chắc có lẽ tâm tình hay nhất mà chúng ta phải có đó chính là tâm tình khiêm hạ.

Xin Chúa cho chúng ta mặc lấy tâm tình khiêm hạ của vua Thánh Đavit cũng như tấm lòng khiêm cung nơi Đức Trinh Nữ Maria để quyền năng, tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ nơi cuộc đời mỗi người chúng ta như Chúa đã từng biểu lộ nơi vua thánh Đavit và Đức Trinh Nữ Maria.

CHÚA NHẬT CỦA MẸ
Lc 1, 26 - 38
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nhật 4 Mùa Vọng là Chúa nhật cuối cùng dọn mừng đón Chúa giáng sinh. Thực tế mà nói, Chúa nhật này phải gọi là Chúa nhật của Đức Mẹ. Bởi vì, năm nào cũng vậy, Giáo Hội luôn dành riêng Chúa nhật 4 Mùa Vọng để nói đến vai trò hết sức quan trọng của Đức Mẹ. Nếu không có Đức Mẹ, không có lời xin vâng của Mẹ theo ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Chắc chắn, lịch sử cứu độ đã bước vào một khúc ngoặt khác.Hôm nay, gần đến lễ Giáng Sinh, Giáo Hội khẩn khoản kêu mời nhân loại, con người hướng về mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa. Mầu nhiệm đã được các ngôn sứ loan báo từ bao ngàn năm và cuối cùng được thực hiện nơi chính cung lòng trinh khiết của Đức trinh nữ Maria, một người nữ tử Sion, một cô thiếu nữ hiền lành, đạo đức và hết mực thánh thiện: ” Trinh nữ Maria đã cưu mang Con Thiên Chúa bởi phép Chúa Thánh Thần “ và Mầu nhiệm cứu độ đã đến trần gian nơi Hài Đồng Giêsu…

Ở đây dựa theo Giáo lý Công Giáo chúng ta phác họa vài nét cơ bản về Mẹ Maria để qua đó chúng ta hiểu Mẹ là ai ? Đức Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế, người đã sinh ra Chúa Giêsu. Đức Mẹ Maria thuộc dòng dõi vua Đavít, thân sinh người là ông thánh Gioankim và thân mẫu người là bà thánh Anna. Theo như truyền thống kể lại thì hai ông bà đã già chỉ có Maria là người con duy nhất. Maria sinh ra và lớn lên tại làng Nagiarét, trong xứ Galilêa ở mạn Bắc nước Palestina. Khi Maria đến tuổi thành hôn thì kết hôn với một người tên là Giuse cũng thuộc chi họ vua Đavít, làm nghề thợ mộc ở Nagiarét. Chính trong thời kỳ Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, thì thiên thần Gabriel đã được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Maria cho cô biết là cô sẽ thụ thai và sinh ra Đấng Cứu Thế. Và tuy đã đính hôn nhưng Maria đã khấn giữ mình đồng trinh, nên thưa lại cùng vị Thiên sứ rằng: “ Việc đó làm sao thực hiện được vì tôi không biết đến người nam ?“. Nhưng Thiên sứ đã giải thích cho Maria biết là cô đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần chứ không theo thói thường nhân loại, nên sinh con mà cô vẫn còn đồng trinh. Lúc ấy Maria mới thưa lại cùng Thiên sứ: ” Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.Chính lúc ấy Ngôi Hai đã xuống đầu thai trong lòng trinh nữ Maria.

Mẹ Maria hoàn toàn được đắc sủng với Thiên Chúa. Vì được tuyển chọn, Mẹ Maria đã được những ơn huệ cao quí mà bất cứ người nào trên trần gian này cũng không có được. Bởi vì là người được Thiên Chúa cất nhắc làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên ngay khi Mẹ Maria được cưu mang trong cung lòng bà Thánh Anna, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi tì ố, bợn nhơ của tội lỗi. Đây là mầu nhiệm:”Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn vô nhiễm nguyên tội “. Chính vì thế, Thiên Chúa luôn gìn giữ sự thánh thiêng của Mẹ, gìn giữ Mẹ không vương bất cứ một chút bợn nhơ của tội lỗi trong suốt cuộc đời của Mẹ. Trong những tháng cưu mang Chúa Giêsu, Thiên Chúa luôn tuôn đổ hồng ân đặc biệt xuống trên Mẹ để Mẹ nhận ra rằng Chúa Giêsu đang sống trong Mẹ. Mầu nhiệm này thật lạ lùng đến nỗi thánh sử Luca đã nhận xét về Mẹ Maria sau cuộc phục sinh của Chúa Giêsu rằng: ”Mẹ Maria đã ghi nhớ tất cả, và suy đi nghĩ lại trong lòng “ ( Lc 2, 19).

Có thể nói đây là biến cố hết sức kỳ diệu Chúa đã làm cho Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, Chúa cũng làm cho nhân loại qua chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa đã ban cho Mẹ những đặc ân cao quí nhất, Mẹ đã đem Chúa Giêsu cho nhân loại và nhân loại đã lãnh nhận ơn cứu rỗi nơi Chúa Giêsu. Đó là mầu nhiệm tuyệt vời Thiên Chúa đã trao ban cho Mẹ Maria và trao ban cho con người, cho thế giới, cho loài người.

Sự cưu mang Chúa Giêsu và sinh ra Chúa Giêsu bởi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria là một ân sủng lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho nhân loại, cho thế giới, cho từng người chúng ta.

Mẹ Maria không chỉ nói lời xin vâng một lần với Thiên Chúa, nhưng lời xin vâng của Mẹ là lời xin vâng bao trùm trọn cả kiếp người của Mẹ. Mẹ đã nói lời xin vâng làm theo ý Thiên Chúa ngày truyền tin, nhưng lời xin vâng của Mẹ đã đi theo suốt đời của Mẹ và điều vô cùng ý nghĩa và là của lễ sống động nhất, đó là Mẹ đã chấp nhận đứng dưới chân Thập Giá để dâng Con của Mẹ cho Đức Chúa Cha.

Cuộc đời của người môn đệ Chúa, của tất cả chúng ta sẽ vô cùng ý nghĩa nếu biết sống trọn theo ý Chúa bằng việc giữ Đạo và sống Đạo. Chúng ta sống phải như thánh Phaolô: “ Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô “ hoặc “ Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết nói lời xin vâng như Mẹ trong suốt cuộc lữ hành trần thế của chúng con. Amen.

DẤN BƯỚC TRONG NIỀM TIN XIN VÂNG
Lc 1, 26 - 38
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Tạm biệt vị Tiền hô của Thiên Chúa - Thánh Gioan Tẩy Giả, từ nay cho đến Lễ Giáng Sinh, chúng ta cùng nhau chiêm ngắm chân dung một nhân vật rất ư quan trọng trong lịch sử Cứu độ: Đức Trinh nữ Maria. Chính Đức Maria là mẫu gương tuyệt vời, là nguồn cảm hứng cho toàn thể địa cầu. Chính nhờ Mẹ và nơi Mẹ, Chúa Giêsu Kytô- Đấng Cứu độ trần gian, mặc lấy xác phàm nhân loại, giáng sinh làm người để cứu chuộc nhân loại. Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng mời gọi chúng ta chiêm ngắm chân dung tuyệt mỹ cũng như sứ mạng cao quý mà Thiên Chúa đã ưu ái dành cho Mẹ.

Khác với việc truyền tin cho Dacaria, diễn ra trong bối cảnh huy hoàng của Đền thờ Giêrusalem, việc truyền tin cho Đức Maria ở một nơi thật khiêm tốn và bé mọn- nơi “một thành xứ Galilê”, trong căn nhà đơn sơ tại Nazarét. Khung cảnh tuy đơn sơ bé mọn nhưng chứa đựng một bầu khí tuyệt vời thánh thiện. Bầu khí ấy cho phép chúng ta chiêm ngưỡng trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa tuy vô cùng cao quý nhưng lại thật gần gũi, thật thân thiết với cái nghèo đói - nghèo đến trần trụi, nhất của kiếp người.

Thánh sử Luca dường như có ý muốn nhấn mạnh đến Mẹ - thiếu nữ Sion, là một trinh nữ trong vai trò của người nhận sứ điệp Thiên Chúa. Từ Trinh nữ ở đây phải hiểu như thế nào? Trinh nữ, tiếng Hylạp là Parthenos để chỉ mọi thiếu nữ và, mặc nhiên, được xem là đồng trinh. Điều này càng được khẳng định cách vững chắc trước câu hỏi mà Đức Mẹ đặt ra với sứ thần: “Việc ấy xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”.

Không chỉ là Trinh nữ, Đức Maria còn được biết đến qua danh hiệu “Đấng đầy ân sủng” của Thiên Chúa- tên mới mà sứ thần đặt cho Mẹ. Chúng ta biết đây là kiểu nói rất hiếm gặp trong Kinh thánh, chỉ vài lần mà thôi (x. Hc 18,17; Ep 1,16). Đấng đầy ân sủng (Kekhritomene) ở thể thụ động và có thể hiểu rằng Đấng ấy đã, đang và sẽ đầy ân sủng. An sủng ở đây không chỉ hiểu là đặc sủng của nhà vua và lòng sủng ái của người yêu mà còn là người làm đẹp lòng Thiên Chúa, nó không còn chỗ cho tội lỗi xâm chiếm.

Trước sứ điệp của sứ thần, Đức Maria chỉ bối rối chứ không sợ hãi như trường hợp Dacaria. Đức Mẹ cố tìm hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm vừa được mạc khải một cách bất ngờ. Cũng như Dacaria, Mẹ cũng đặt vấn đề với sứ thần nhưng khác với Dacaria, Mẹ không hoài nghi mà xuất phát từ lòng tin đi tìm ánh sáng. Đặt vấn đề như thế, Mẹ đã làm hài hoà giữa đức tin và lý trí, và đó là dấu hiệu của một niềm tin biết vận dụng lý trí để truy tìm chân lý. Chúng ta biết đức tin không lý trí là đức tin mù quáng; và, lý trí mà không có đức tin thì không còn mầu nhiệm, không còn sự linh thánh nữa. Thế nên câu hỏi của Đức Maria- cách nào đó, đưa đến một mạc khải rõ ràng về Chúa Giêsu. Qua đó chúng ta biết tường tận người con mà Mẹ sinh ra chính là “Con Thiên Chúa” - tước hiệu mà Cựu ước và Luca dùng để chỉ Đấng Mêsia, tức Chúa Giêsu, con Mẹ, người sẽ làm thay đổi bộ mặt địa cầu, sẽ dẫn đưa nhân loại từ trong bóng đêm tội lỗi về với ánh sáng Tin mừng cứu rỗi.

Lý trí đã dẫn đưa Mẹ tìm hiểu mầu nhiệm cao siêu này và nhờ ơn Thiên Chúa qua sự hướng dẫn của sứ thần, giờ đây Mẹ đã hiểu ý định của Thiên Chúa- tuy chưa trọn vẹn, nhưng cũng đủ để mẹ phó thác, dấn bước trong niềm tin của mình. Lời thân thưa “Xin vâng” không chỉ biểu hiện của một thái độ khiêm nhường mà còn là một hành động của niềm tin. Tiếng “Xin vâng” của Mẹ, chứng tỏ rằng Mẹ đã hiểu phần nào về mầu nhiệm cao quý mà Thiên Chúa ưu ái dành cho Mẹ. Dấn bước trong niềm tin “Xin vâng”, Mẹ đã cho chúng ta bài học về sự dấn thân, về “đêm tối của niềm tin “ là gì. Cho hay, đức tin không phải là ngọn đèn cao áp để có thể nhìn tường tận nhưng chỉ như con đom đóm lúc ẩn lúc hiện; như tiếng sấm trong màn đêm, lúc sáng lúc tối để chúng ta bước từng bước một. Nó vừa đủ sáng cho những ai vững tin dấn bước nhưng đồng thời, nó cũng làm chồn chân cho những ai e dè ngần ngại dấn thân. Và vì thế, chúng ta mới hiểu tiếng Xin vâng của Mẹ chính là tiếng Xin vâng lên đường, là chặng tới của một niềm tin mà Mẹ đã trọn vẹn phó thác trong sự quan phòng của Thiên Chúa.

Lễ Giáng sinh đang đến gần là dịp nhắc nhớ mỗi người Kytô hãy mở rộng tâm hồn đón Chúa ngự đến. Chúa đã đến, đang đến và sẽ đến trong chính ngôi nhà thiêng liêng của mỗi người. Người đang đứng bên ngoài, gõ cửa và chờ đợi chúng ta. Thiên Chúa mong chờ tiếng đáp trả “xin vâng” của mỗi người chúng ta như xưa Đức Maria đã quảng đại đáp trả mà không cần tính toán so đo. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”. Tiếng “Xin vâng” của mẹ vẫn còn mãi vang vọng và mời gọi chúng ta mỗi ngày…

FIAT
Lc 1, 26 - 38
Sr Mai An Linh, OP

Để chuẩn bị cho Con Chúa Nhập Thể và Nhập Thế Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng trinh khiết của Đức Maria ơn Vô Nhiễm nguyên tội, và Đức Maria với lòng khiêm tốn, tin tưởng phó thác hoàn toàn vào tình yêu Thiên Chúa đã lên tiếng “ Này tôi là tôi tớ Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như Sứ Thần nói”(Lc.1,38).

Với lời xin vâng mà bao đời đã trông đợi nay được thực hiện, khai mở một kỷ nguyên mới mà Thánh Phaolô đã diễn tả “ Toàn thể tạo vật rên siết chờ ngày được cứu rỗi”. Vâng, một thế giới tuyệt vọng trong tội lỗi mà Satan thống trị, nay được giải thoát và nhân lọai được trở thành Con Thiên Chúa.

Lời xin vâng ấy được thành sự nhờ Đức Maria đã mở lòng ra để Thiên Chúa làm và Thiên Chúa đã làm. Ngài đã biến cung lòng nhân lọai thành Đền Thờ Thiên Chúa, đã làm cho lòng trinh nguyên không sinh con lại hạ sinh Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa đã làm nơi Đức Maria để giải thoát cho Ngài khỏi ách lề luật “ném đá” khi mang thai Con Chúa mà Thánh Giuse không hay biết. Đức Maria chắc chắn lo lắng trước những thắc mắc mà Thánh Giuse đang mang trong lòng, Ngài không thể tự giải quyết được nhưng tin rằng Thiên Chúa sẽ làm cách nào đó cho Thánh Giuse hiểu và Thiên Chúa đã hành động.

Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria khi sinh con trong cảnh cô thế cô thân bị “ người nhà không tiếp nhận ” và nghèo nàn, nhưng lại để cho Con Chúa hạ sinh an toàn và mở đường cứu độ cho dân ngoại.

Thiên Chúa đã làm khi Đức Maria bồng con trốn qua Ai Cập vì bị thế gian ham mê quyền lực ghét bỏ, để rồi khi trở về Đức Giêsu đã như một Moisen trong cuộc Xuất Hành mới giải thoát dân Người khỏi nô lệ tội lỗi.

Thiên Chúa đã làm nơi Mẹ trong quãng thời gian Chúa Giêsu sống ẩn dật nơi Nagiareth, một con người tầm thường, phải lệ thuộc vào nhân lọai như bao người khác. Đúng là Đức Maria phải sống trong thử thách đức tin nhưng Mẹ vẫn mở lòng ra để cho Thiên Chúa làm những gì Ngài muốn.

Đặc biệt hơn cả là Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria can đảm đứng dưới chân cây Thập Giá, tưởng chừng như một cuộc thất bại nặng nề, mọi sự như chấm hết, nhưng Thiên Chúa đã làm cho mọi người phải nhìn nhận : “ Quả thật ông này là Con Thiên Chúa”

Vâng, “Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được” và Đức Maria xứng đáng là Người Nữ vẹn toàn, Mẹ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và luôn sống tinh thần của ngày “ Xin Vâng” ấy.

Còn chúng ta thì sao? Thiên Chúa có thể làm được gì nơi bản thân chúng ta? Có biết bao nết xấu đã đâm rễ sâu trong người, và nó đã trở thành cội rễ cho những tính mê nết xấu khác, tôi có để cho Thiên Chúa bứng nó đi không ? Tôi có muốn nên thánh dầu tôi tội lỗi không ? Tôi có để cho Thiên Chúa dùng tôi mà làm những việc quá sức tôi không? hay lại viện lý do : it khả năng, thiếu sức khỏe ? Hãy học nơi Đức Maria “ Xin Chúa cứ làm cho tôi như Sứ Thần nói” dù tôi tội lỗi, dù tôi tài hèn sức yếu, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa có thể làm được mọi sự.

Lạy Chúa, kế hoạch Cứu Độ của Chúa đã khai mở qua sự suy phục Thánh Ý Thiên Chúa của Đức Maria. Xin cho chúng con biết noi theo cuộc sống âm thầm, khiêm tốn của Mẹ, luôn sẵn sàng tuân phục Ý Chúa qua các vị chủ chăn và sự soi động sâu xa của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn, để xứng đáng đón nhận ơn cứu độ gần kề.

MẸ MARIA
Lc 1, 26 - 38
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nhật IV mùa vọng dành riêng để nói về Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ Maria quả thực nắm một vai trò rất quan trọng trong lịch sử cứu độ. Do đó, đoạn Tin mừng của thánh Luca muốn trình bầy một giáo lý, một niềm tin của tất cả những người Kitô hữu tiên khởi về con người của Đức Kitô mà họ đã được tiếp xúc, đã tin theo, đã được đụng chạm tới cái chết của Ngài, nhưng cuối cùng họ đã tin tưởng vào sự sống lại của Chúa. Quả thực, niềm tin ấy là niềm tin sâu sắc, giáo lý của thánh Luca mang một chiều kích sâu xa về lòng tin vào con người của Chúa Giêsu. Đối với cộng đoàn Giáo Hội tiên khởi, Chúa là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa. Sự lạ lùng này đã được diễn tả qua hàng loạt những sự kiện lạ lùng. Mà sự lạ lùng có một không hai trong lịch sử cứu rỗi là việc Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng tinh tuyền của Mẹ…

Nhân loại sẽ không có gì để nói, để diễn tả nếu Mẹ Maria cũng để mình cuốn hút vào những sự việc trần thế và lạ lùng theo kiểu trần gian. Không, Mẹ Maria đã có một thái độ rất siêu nhiên, bình thản, an bình trước công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đang diễn ra một cáh hết sức lạ lùng trong lịch sử cứu rỗi. Maria đã có một cử chỉ, một thái độ hoàn toàn khác với tư tế Giacaria khi Ông biết vợ Ông sẽ thụ thai con trong lúc tuổi già. Giacaria đã ngờ vực, đã sửng sốt hầu như không muốn tin. Còn Maria, Mẹ đã thưa với sứ thần:” Này tôi là nữ từ của Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo như lời sứ thần loan báo”. Một lời ưng thuận, một lời xin vâng đã làm đảo lộn nhân loại vì Mẹ Maria đã sống niềm tin, phó thác tuyệt đối. Một lời xin vâng vượt lên tất cả mọi dự đoán của người trần. Maria đã tin tưởng tuyệt đối, nên Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa làm người trong niềm tin thâm sâu, trước khi đón nhận Chúa Giêsu trong thân xác của mình. Sau này, khi Chúa Giêsu lớn và đi rao giảng, có người báo với Chúa rằng Mẹ của Ngài và anh em của Ngài đang tìm Chúa ở ngoài. Chúa Giêsu đã khẳng định:” Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa là Mẹ và anh em của Ngài”. Nói lên điều đó, Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò làm Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, Ngài xác định Maria đã là Mẹ của Ngài cách trọn vẹn và còn liên hệ trên bình diện tinh thần, trên bình diện siêu nhiên.

Mẹ Maria đã thực hiện lời Chúa cách trọn vẹn và suốt cuộc đời của Mẹ, Maria đã luôn làm theo ý Chúa. Do đó, dọn đường cho Chúa đến là lắng nghe và thực thi lời Chúa trong đời sống của mình. Đây là con đường đưa nhân loại, đưa từng người vào mối liên lạc mật thiết thâm sâu với Chúa Giêsu. Lời của Chúa dẫn nhân loại đi vào một cuộc sống mới, một thế giới mới, thế giới nhuộm đầy tình thương. Lời của Chúa dẫn nhân loại tới tận Hang Đá Bêlem, để chiêm ngắm một Hài Nhi nghèo hèn, mang tên Giêsu đang nằm trong máng cỏ lừa. Lời của Chúa dẫn mỗi người, dẫn nhân loại đi tới với những người nghèo, người đau khổ, người neo đơn, những người đang vật lộn với những khó khăn của cuộc sống. Dọn đường và đón nhận Chúa là sống trọn vẹn kiếp sống làm người với lòng tin thẩm sâu. Tiếp nhận Chúa là học hỏi lời Chúa, làm cho lời Chúa thấm nhập tận đáy sâu của tâm hồn con người đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống của mình. Mẹ Maria quả là mẫu gương chói lòa vì Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa một cách trọn hảo.

Lạy Mẹ Maria, xin ban cho chúng con một quả tim mới để chúng con biết lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống.

XIN VÂNG
Lc 1, 26 - 38
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

Có một người kia đã nói : “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.

Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.

Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu truyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.

Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gáp-ri-en; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gáp-ri-en và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.

Tiếng “Xin vâng” vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó, Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.

Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta : Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức Mẹ.

Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẩu đối thoại : từ một mẩu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẩu đối thoại giữa con rắn và bà E-và trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẩu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẩu đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì ? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gáp-ri-en đề nghị : một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà E-và ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.

Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học : mầu nhiệm nhập thể, Con Đức Mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói : nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ý Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ý Cha”. Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là “Vâng theo thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.

Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng Sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh với tâm tình như Mẹ.

KHIÊM NHƯỜNG ĐÓN NHẬN
Lc 1, 26 - 38
Đức Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt

Đoc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo : Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương : Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen : Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp đựoc thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.

Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn ? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn ? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân ? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên chúa.

CHÚA NHẬT THỨ TƯ MÙA VỌNG
Lc 1, 26 - 38
Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR

Khi hồi tưởng lại những kỷ niệm thời thơ ấu, chúng ta thường thấy hình ảnh người mẹ thân yêu hiện ra. Cho dù còn trẻ hay đã già, dù nước da trắng hay sẫm, dù thế nào đi nữa, thì người ấy vẫn là người mẹ lo toan cho cuộc sống của chúng ta. Mối liên hệ giữa mẹ và con rất là đặc biệt và luôn dựa trên một mối dây yêu thương. Bởi thế không lạ gì mà Mẹ Maria xuất hiện giữa Tin Mừng hôm nay, gởi gắm cho chúng ta một sứ điệp rất đơn giản mà lại rất xúc động chưa từng thấy. Đơn giản là một thiếu nữ đang quỳ gối đón nhận sứ điệp huyền nhiệm từ thiên sứ Gabrien, với tâm tình rất thanh thản, và nàng đã trao về Thiên Chúa trọn vẹn cuộc đời mình khi nói: “Xin Chúa làm cho tôi như lời sứ thần truyền.”

Giây phút Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Đúng là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi muốn trở thành một người giữa chúng ta. Và Thiên Chúa phải cần đến Mẹ Maria là để Ngài có thể sai Con Một Ngài đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Mẹ đã được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để làm mẹ của Đức Kitô. Thì lúc Mẹ nói: “Xin vâng” với thiên sứ chính là phút bình mình của ơn cứu độ của nhân loại. Và Mẹ sẽ sinh hạ
ơn cứu độ ấy tại Bêlem vào Đêm Giáng Sinh. Mẹ Maria đã không thưa “Xin vâng” một lần với Thiên Chúa mà thôi, nhưng Mẹ luôn luôn xác nhận lại hai tiếng “Xin vâng” ấy nhiều lần trong đời. Mẹ đã không hề nghĩ tới chuyện mọi cánh cửa nhà trọ sẽ đóng lại, xua đuổi Mẹ đúng vào ngày sinh hạ Hài Nhi. Sau đó Mẹ lại phải lên đường bôn tẩu sang đất Ai cập, và 33 năm sau lại phải chứng kiến xác con treo trên khổ giá, một cái chết của kẻ tội đồ. Những lúc ấy Mẹ lại thưa với Thiên Chúa của Mẹ hai tiếng “Xin vâng”.

Hôm nay Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng, lễ Giáng Sinh sắp đến nơi rồi, tâm tự chúng ta đang hướng về Mẹ Maria. Mẹ là tấm gương cho chúng ta soi về việc phải lắng nghe lời Chúa và chờ mong Chúa đến. Mỗi khi tâm trí Mẹ hồi tưởng lại lời chào của thiên sứ năm nào, chắc chắn là Mẹ lại dần dần hiểu thêm ý nghĩa sứ điệp và mầu nhiệm Giáng Sinh. Thiên Chúa không chỉ muốn trở nên một người như chúng ta mà khi hành động như thế Ngài còn muốn chúng ta trở nên giống như Ngài.

Khi lắng nghe Lời Chúa, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy đây là một khía cạnh quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu. Làm một Kitô hữu chính là trở nên một người ngày đêm hướng mở đôi tai tâm hồn lắng nghe tiếng Chúa gọi hầu có thể đáp lại ngay tiếng Ngài. Chúng ta có thể cầu xin Mẹ giúp đỡ mỗi một người có được cung cách thái độ lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn sẵn sàng và sẵn lòng mang Đức Kitô đến cho đời như Mẹ đã làm ngày xưa.

Mẹ Maria đã sinh hạ Đức Kitô trong máng cỏ và nay lại muốn sinh hạ Chúa trong tâm hồn chúng ta. Mẹ đã sửa sang cuộc sống của Mẹ thành một nơi xứng hợp cho Chúa đến thì nay chúng ta cũng phải làm như thế. Thiên Chúa đã không để Mẹ Maria đứng bên ngoài lễ Giáng Sinh, chúng ta cũng thế không thể để cho Mẹ đứng bên lề cuộc sống chúng ta.

DỌN LÒNG ĐÓN NHẬN CHÚA ĐẾN NHƯ MẸ
Lc 1, 26 - 38
Lm Đan Vinh

1. KHAO KHÁT TÌM THÁNH Ý CHÚA:
+ Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và chào : "Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà. Nghe lời chào ấy, Bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì" (Lc 1,28-29). Đứng trước một biến cố lớn lao bất ngờ, Maria đã bối rối. Nhưng sự bối rối ấy không do hoang mang nghi ngờ như Da-ca-ri-a, mà do tâm hồn luôn khao khát đi tìm Thánh Ý Chúa.

+ Về phần chúng ta thì thế nào? Đối diện với những biến cố xảy ra trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta chỉ biết than van kêu trách Chúa đã không thương mình, mà không thử tìm xem Chúa múôn nói gì với chúng ta qua những biến cố ấy. Chúa Giêsu vẫn thường đi qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta đã không gặp được Ngài vì không muốn gặp. Nhiều lần Chúa đã đứng ngoài cửa tâm hồn của chúng ta và gõ, nhưng chúng ta đã không nghe thấy nên không mở ra đón rước Ngài.

2. XIN VÂNG Ý CHÚA :
+ Mẹ Maria luôn sống Xin Vâng trong cả cuộc đời. Khi sứ thần truyền tin, dù chưa hiểu rõ mọi điều, nhưng Mẹ đã xin vâng. Rồi trong các biến cố sau đó trong cuộc đời Chúa Giêsu, Mẹ luôn ghi nhớ mọi điều xảy ra và suy đi nghĩ lại trong lòng (x. Lc 2,19). Mẹ quyết tâm làm trọn sứ mệnh được Chúa trao cho. Lời thưa Xin Vâng quan trọng nhất là khi đứng kề bên cây thập giá trong cuộc khổ nạn của Con, Mẹ chứng kiến cảnh Chúa Giêsu bị quân lính cầm lưỡi đòng đâm thấu cạnh sườn (x. Ga 19,25-34), ứng nghiệm lời ông già Si-mê-on đã tiên báo : "Này đây một lưỡi gươm sắt sẽ đâm thâu tâm hồn Bà" (x Lc 2,35)

+ Lời thưa "Xin Vâng" cũng phải là lời của các tín hữu chúng ta trong mọi lúc mọi nơi : Khi gặp may lành ta xin vâng và cảm tạ hồng ân Chúa ban. Nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta cũng vẫn phải cảm tạ Ngài và "Xin Vâng" như Mẹ Maria, vì biết rằng : mọi sự Chúa để xảy ra cho chúng ta đều tốt đẹp và hữu ích cho phần rỗi chúng ta : "Tất cả đều là hồng ân" (x. 1 C 15,10). Mỗi khi gặp điều gì trái ý, chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu để cầu nguyện như sau : "Cha ơi, nếu được, thì xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha" (Mt 26,39)

3. TIN VÀO THIÊN CHÚA QUYỀN NĂNG :
+ ĐỨC TIN CỦA FULTON OURSLER : Vào một buổi chiều đông tiết trời lạnh giá, FULTON, một người đã mất Đức Tin và không đến nhà thờ nhiều năm, giờ đây đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi đi qua đại lộ có Nhà Thờ Chánh Tòa của Thành phố Nữu Ước. Tự nhiên ông thấy như có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông đi vào trong Nhà Thờ và đến quì trước tương Đức mẹ Maria đặt tại gian nhà nguyện bên hông Nhà Thờ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Fulton mở miệng ra cầu nguyện như sau : " Lạy Mẹ Maria, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ bây giờ để tiếp tục bài bác chế diễu các việc con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng lúc này con cảm thấy tâm hồn con thật bình an, dù đang gặp nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm Đức Tin". Ngay lúc đó, Fulton cảm thấy có một điều gì đó thật kỳ diệu xảy ra nơi ông và biến đổi ông trở thành một người mới. Ông đã có lại Đức Tin và trở thành một chiến sĩ nhiệt thành truyền bá Đức Tin. Cũng từ ngày đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Maria để làm chứng cho Chúa Giêsu bằng một cuộc sống khiêm nhường cậy trông phó thác và đầy tinh thần vị tha bác ái.

+ Thực ra, việc biến đổi những người vô tín để họ nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, cũng như việc đẩy lùi và xóa bỏ các tệ nạn xã hội như : Sì-ke ma-túy, cờ bạc đĩ điếm, lừa đảo cướp giựt... qủa thật là điều khó lòng thực hiện được chỉ với khả năng giới hạn của chúng ta, nhưng không phải là điều khó làm đối với Thiên Chúa, vì : "Không có gì mà Chúa không làm được" (Lc 1,37). Để việc tông đồ truyền giáo, là một việc vượt quá khả năng tự nhiên của chúng ta đạt kết quả, thì chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu và nhờ quyền năng của Ngài trợ giúp như Ngài đã nói : "Thầy là cây nho, các con là ngành. Ngành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái... Vì không có Thầy, các con chẳng làm được gì" (Ga 15,5).

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1)
Lạy Chúa,
chỉ còn ít ngày nữa là tới đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Chung quanh chúng con, người người đang tấp nập mua sắm và trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị mừng lễ. Nhưng có lẽ điều Chúa muốn chúng con phải làm lúc này là chuẩn bị tâm hồn bên trong, làm cho lòng trí chúng con trở thành một cái hang đá trong sạch và đầy tràn ánh sáng của Chúa, xứng đáng đón rước Chúa đến ngự trong Đêm Giáng Sinh.

Xin Chúa giúp chúng con thật lòng sám hối tội lỗi, quyết tâm làm những việc tốt là khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhất là cho chúng con biết lưu tâm chia sẻ tình thương cho những người nghèo khổ đáng thương như : các cụ già cô đơn không nơi nuơng tựa, các trẻ khiếm thị khuyết tật, các trẻ mồ côi phải lang thang kiếm sống nơi đầu đường xó chợ, và hết những bệnh nhân yếu đau liệt giường mà không có tiền để chữa trị.. . nhờ đó chúng con xứng đáng được đón rước Chúa đến và ban dồi dào hồng ân cho chúng con trong Mùa Giáng Sinh này.

* X)
HIỆP CÙNG MẸ MARIA. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
2)
Lạy Mẹ Maria,
mỗi lần gặp phải sự khó khăn hoạn nạn, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn như người ta thường nói : "Hữu sự vái tứ phương", chúng con lại đi tìm sự trợ giúp nơi những con người hành nghề mê tín dị đoan như : thầy bói, cầu cơ, đồng cốt... đang khi lẽ ra chúng con phải một lòng cây trông vào quyền năng của Chúa, chạy đến ẩn mình dưới sự phù trì che chở của Chúa xin ơn Chúa soi sáng để biết mình phải làm gì theo Thánh Ý Chúa ? Đồng thời, phải biết nhờ Mẹ Maria các thánh cầu bầu , noi gương Mẹ đã làm để giúp đôi tân hôn tại tiệc cưới Ca-na xưa.

Vậy xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe lời Chúa phán, tìm biết Thánh Ý Chúa qua mỗi biến cố cuộc sống, và sẵn sàng mở lòng để thưa "xin vâng" như Mẹ đã làm xưa.
* X)
HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

CÙNG MẸ MARIA SỬA SOẠN
Lc 1, 26 - 38
Lm Trần Bình Trọng, USA

Vào thời trước Chúa Giáng Sinh, thì dân Do Thái mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết, vì họ đã chán ngấy cái tình trạng suy đồi ở xã hội Do Thái. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự đều trên đường xuống dốc. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ bị đế quốc La Mã cai trị. Vì thế mà dân chúng mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng thời bấy giờ thì họ mong đợi vị cứu tính đến để giải thoát họ khỏi cảnh lầm than, đô hộ, chứ không hẳn là giải thoát họ khỏi tội lỗi. Còn phụ nữ Do Thái nói chung thì mong được làm mẹ Đấng Cứu thế. Riêng trinh nữ Maria thì lại không có cao vọng làm mẹ Đấng Cứu thế, mặc dầu có cơ hội vì đã đính hôn với ông Giuse. Cái luật đính hôn của Do Thái thời bấy giờ rất là nghiêm túc. Đã đính hôn có nghĩa là đã cưới hỏi theo pháp lý. Tuy nhiên bà Maria qua một sự thỏa thuận nào đó với ông Giuse, như một lời khấn, đã giữ mình đồng trinh. Chẳng thế, mà khi sứ thần Gabriel đến thỉnh nguyện trinh nữ chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế, trinh nữ tỏ mối quan tâm về cái lời hứa đồng trinh của mình: Điều đó xẩy đến thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Điều đó chứng tỏ Trinh nữ yêu quí đức đồng trinh như thế nào! Chỉ khi Sứ thần bảo đảm với Trinh nữ là việc Trinh nữ thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh linh thì Đức Maria mới chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng Cứu thế. Việc thánh Giuse từ bỏ Đức Maria ra đi cách kín đáo khi nhận ra Bà đang mang thai cũng chứng tỏ là Thánh Giuse ý thức được rằng hai Ông Bà không sống với nhau như vợ chồng.

Phúc âm hôm nay ghi lại Trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đáp trả lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa. Trinh nữ Maria chấp nhận lời Chúa truyền qua miệng Sứ thần Gabriel để được thụ thai, mặc dù không hiểu sự việc có thể xẩy ra như thế nào, vì trinh nữ đã khấn hứa giữ mình đồng trinh. Mặc dù không hiểu, nhưng Trinh nữ đã tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa, để chấp nhận bằng hai tiếng Xin Vâng theo thánh ý Chúa. Bằng việc chấp nhận thánh chỉ của Thiên Chúa, nên Con Một Thiên Chúa, đã được thụ thai cách huyền diệu trong lòng Trinh Nữ. Thời bấy giờ, Trinh Nữ Maria cũng nóng lòng mong đợi Đấng Cứu Thế đến như dân Do Thái nói chung, như những phụ nữ Do Thái riêng. Đặc biệt, Trinh nữ mong đợi Đấng Cứu thế sinh ra từ lòng mình.

Vậy cái lòng mong đợi mà ta cần có là cái mong đợi của Trinh nữa Maria mang thai. Đàn ông và những người đàn bà không lập gia đình không có được cái kinh nghiệm mang thai đó. Mặc dù không có kinh nghiệm mang thai, ta cũng có thể tưởng tượng ra phần nào trinh nữa Maria nóng lòng chờ đợi Con mình sinh ra như thế nào. Cũng chín tháng cưu mang như những người đàn bà mang thai khác. Việc trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa, tin vào lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa, cộng tác với ơn Chúa phải giúp ta làm sao để sửa soạn đón mừng Chúa đến. Việc trinh nữ Maria thụ thai cách kỳ diệu, không có sự cộng tác của người nam phải kiến ta nảy sinh ra cái cảm giác lạ lùng và kính sợ. Không may sống trong thời đại kỹ thuật khoa học, con người đã đi cái cảm giác đó, mất đi cái cảm giác kính sợ, lạ lùng trước những quyền lực siêu nhiên. Đức tin của trinh nữ Maria vào lời Chúa phải có sức linh ứng, giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và thực thi ý Chúa. Lời Chúa không phải là cái gì thuộc quá khứ không ăn nhập với nếp sống hiện tại. Lời Chúa nói với loài người cả ngàn năm trước đây, và Lời Chúa phải có sức sống động trong ta, vì Chúa là Đấng hằng sống.

CHÚA NHẬT THỨ TƯ MÙA VỌNG
Lc 1, 26 - 38
Lm Augustine, SJ.

Bà Elisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."

Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"

Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy gìa rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."

Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Ðức Maria được hỏi ý

Trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen thuộc về việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho Ðức Mẹ. Chúng ta thường nghĩ rằng chắc thánh Luca đã nghe Ðức Mẹ kể lại nguyên văn cuộc đối thoại giữa Ðức Mẹ với sứ thần Gáp-ri-en, rồi sau đó viết lại. Thật ra, có thể thánh Luca chỉ muốn trình bày một kinh nghiệm nội tâm của Ðức Mẹ, kinh nghiệm này chỉ có một mình Ðức Mẹ thấu biết.

Khi Thiên Chúa muốn Con của Ngài xuống thế làm người, để cứu độ nhân loại, Ngài đã muốn người Con ấy là người trăm phần trăm. Chính vì thế Thiên Chúa đã chuần bị cho Con của Ngài một người mẹ trần thế. Người mẹ ấy là Ðức Maria, người làng Nadarét, vùng Galilê, nước Pa-lét-tin. Cô Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn vàn phụ nữ trên địa cầu. Ngài chọn Cô chẳng phải vì Cô thánh thiện hơn người khác. Ngài chọn Cô từ khi Cô còn trong bụng mẹ, và Ngài đổ trên Cô tràn trề ân sủng: "Hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng Cô" (Lc 1,28). Ðược tràn trề ân sủng có nghĩa là được Thiên Chúa mến thương, được đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).

Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho Cô Maria. Ngài đã tạo dựng Cô như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn Cô xứng đáng trở nên người cưu mang chính Con Một của Ngài. Maria là một kiệt tác của Thiên Chúa, dù bề ngoài Cô chỉ là một thôn nữ của một ngôi làng nhỏ bé vô danh, cách đây 20 thế kỷ.

Nhưng Thiên Chúa không ép buộc Cô Maria làm mẹ của Con Một Ngài, dù Ngài đã chuẩn bị Cô một cách đặc biệt để đón nhận trọng trách cao cả đó. Ngài tôn trọng tự do của Cô, tự do mà chính Ngài đã ban cho Cô trong tư cách là người. Ngài không có quyền đặt Cô trước một sự-đã-rồi. Ngài muốn hỏi ý Cô, và chờ Cô ngỏ lời ưng thuận. Không có sự ưng thuận này, Thiên Chúa không thực hiện được công trình cứu độ nhân loại. Ai dám ngờ rằng Thiên Chúa vẫn cần đến con người? Ngài đã cần Ðức Maria để làm người cộng tác với Ngài. Ngài vẫn cần đến tôi, đến từng người chúng ta, hôm nay. Mỗi người chúng ta đều được giao phó một trách nhiệm. Không phải là "không có mợ thì chợ vẫn đông". Sự khước từ của chúng ta kéo theo bao đổ vỡ mà chúng ta không lường được.

Bài Tin Mừng trên đây cho thấy chính Thiên Chúa hỏi ý Cô Maria qua trung gian một sứ thần do Ngài sai đến. Trong Cựu Ước, ta cũng thấy sứ thần của Ðức Chúa (hay chính Ðức Chúa) hiện ra để loan báo sự chào đời của một số nhân vật, như Ít-ma-en (Sáng thế 16,7-13), I-xa-ác (Sáng thế 17,1-21;18,1-15) và Sam-son (Thủ lãnh 13,3-20). Thánh Luca đã viết đoạn Tin Mừng hôm nay dựa trên cái khung của các đoạn văn Cựu Ước trên đây. Ðể loan báo sự chào đời của một trẻ thơ, thường thường có 5 yếu tố trong bài trình thuật: a- một sứ thần (hay Ðức Chúa) xuất hiện cho người cha hay người mẹ; b- người được sứ thần hiện ra cảm thấy sợ hãi, bối rối; c- nội dung sứ điệp từ trời; d- lời vặn hỏi hay lời xin một dấu chỉ của người được sứ thần hiện ra; e- sứ thần trấn an và cho dấu chỉ. Trong bài Tin Mừng trên đây của Luca, ta cũng thấy có 5 yếu tố như vậy: a- sứ thần xuất hiện (1,28); b- sự bối rối của Cô Maria (1,29); c- sứ điệp của Chúa (1,30-33); d- lời vặn hỏi của Cô Maria (1,34); e- sứ thần trấn an và cho dấu chỉ: Bà Eâlisabét mang thai trong lúc tuổi già (1,35-37).

Một số nhà chú giải Kinh Thánh gần đây cho rằng không nên hiểu đoạn Tin Mừng trên đây theo nghĩa đen. Ðiều quan trọng không phải là có một sứ thần thực sự đã hiện ra trò chuyện với Ðức Maria, và mẫu đối thoại trên đã được thánh Luca ghi lại nguyên văn. Ðiều quan trọng là chắc chắn Ðức Maria đã được Thiên Chúa mời gọi, hỏi ý, và Mẹ đã đáp lời. Từ lúc ấy Con Thiên Chúa trở nên người phàm trong bụng Mẹ. Mẹ đã trở nên người cưu mang Con Thiên Chúa.

Khuôn mặt Ðức Giêsu

Chúng ta thường gọi đoạn Tin Mừng trên đây dưới tựa đề là "Thiên thần truyền tin cho Ðức Mẹ". Nhưng thiên thần và Ðức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Ðức Giêsu. Ðoạn Tin Mừng này nhằm giới thiệu cho chúng ta căn tính của Ðức Giêsu. Ðó là đích nhắm chủ yếu của thánh Luca. Qua lời của sứ thần mà chúng ta biết Giêsu là ai. Lời của sứ thần Gáp-ri-en gồm hai giai đoạn.

Giai đoạn 1 từ câu 30-33. Sứ thần loan báo Ðức Maria sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Ở đây Ðức Giêsu đã được sứ thần gọi là Con Ðấng Tối Cao. Chúng ta không nên hiểu cụm từ này theo nghĩa như ta vẫn hiểu bây giờ. Trong Cựu Ước, các thiên thần (Tv 29,1), những người Do thái đạo đức (Kn 2,13) và nhất là Ðấng Mêsia (Tv 2,7) cũng được gọi là Con Thiên Chúa hay Con Ðấng Tối Cao. Chính trong Tin Mừng Luca, chúng ta cũng gặp câu: "Hãy yêu kẻ thù… và anh em sẽ là Con Ðấng Tối Cao" (6,35). Vậy ở đây chúng ta chỉ nên hiểu Con Ðấng Tối Cao theo nghĩa là Ðấng Mêsia. Quả thật, cho đến hết câu 33, chúng ta thấy lộ ra khuôn mặt của Ðấng Mêsia: "Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận." Ðây chính là lời Ðức Chúa phán với Ðavít qua miệng ngôn sứ Na-than (2S 7, 12-13) về vị vua sẽ kế nghiệp Ðavít. Như thế Ðức Maria được mời gọi làm Mẹ Ðấng Mêsia.

Giai đoạn 2 từ câu 34-37. Trong giai đoạn này, Ðức Giêsu được gọi là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa. Ðức Maria thụ thai Ðấng Thánh bằng cách nào? "Thánh Thần sẽ ngự trên bà và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà." Như thế Ðức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa, Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần, vì thế Ðấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu cụm từ "Con Thiên Chúa" ở đây theo nghĩa hết sức đặc biệt, có một không hai, bởi lẽ Người Con này được sinh bởi quyền năng Thánh Thần, chứ không phải bởi một người cha nhân loại. "Tôi không biết đến việc vợ chồng" có nghĩa: "Tôi vẫn còn là một trinh nữ." Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Ðức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một trinh nữ. Ðức Giêsu không phải chỉ là Ðấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi. Ngài còn là Ðấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều. Ngài là "Con Thiên Chúa" theo nghĩa viên mãn chưa từng có.

Xin vâng

Chúng ta không rõ đích xác giây phút Ðức Maria được Thiên Chúa ngỏ lời. Lúc đó Mẹ chỉ là một thiếu nữ mới lớn, và đã đính hôn với Giuse. Có thể Mẹ đã mong ước một cuộc hôn nhân bình thường với người mình yêu. Nhưng qua cầu nguyện, dần dần Mẹ thấy Thiên Chúa mời mình đi vào một con đường rất lạ; dần dần Mẹ thấy mình được Ngài tuyển chọn để cộng tác với Ngài trong công cuộc cứu độ nhân loại. Nghe lời Thiên Chúa mời gọi, đã có lúc Mẹ cảm thấy hết sức bối rối (x. câu 29), và sợ hãi (c.30). Có lúc Mẹ không hiểu rõ cách thức Thiên Chúa thực hiện kế hoạch của Ngài nơi con người Mẹ, nên Mẹ đã hỏi để tìm thêm ánh sáng, để hiểu rõ hơn nhằm cộng tác hiệu quả hơn (c.34). Cũng có lúc Thiên Chúa đã cho Mẹ những dấu chỉ để làm Mẹ kiên vững hơn trong đức tin, và xác tín mạnh mẽ hơn rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (cc. 36-37).

Trước khi nói lời Xin Vâng, Mẹ đã trải qua một hành trình đức tin. Xin Vâng không có nghĩa là thấy rõ con đường trước mặt Chúa muốn mình đi. Xin Vâng là mềm mại, buông mình cho Thiên Chúa dẫn đi, yên tâm không phải vì mình làm chủ được tương lai, nhưng vì tương lai của mình nằm trong tay Chúa. Xin Vâng không phải vì mọi sự đều sáng sủa và trơn tru, nhưng Xin Vâng ngay giữa đêm tối tăm gập gềnh. Xin Vâng là để cho Chúa sử dụng con người mình, là chấp nhận để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ. Nếu Ðức Maria chấp nhận ý Thiên Chúa, chấp nhận cưu mang Con Thiên Chúa ngay khi chưa về chung sống với Giuse, thì Mẹ cũng phải chấp nhận những hậu quả xảy ra sau đó. Có thể đã có những hiểu lầm suýt gây tan vỡ, nhưng quan trọng hơn cả là từ sau lời Xin Vâng đầu tiên, Ðức Maria hiểu rằng tình yêu giữa mình và thánh Giuse đã đổi khác. Mẹ được mời gọi để dâng hiến trọn vẹn con người mình - cả hồn lẫn xác - cho Thiên Chúa, cho kế hoạch cứu độ của Ngài, cho Ðức Giêsu Con Mẹ.

Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã trở thành một bào thai nhỏ xíu trong lòng Mẹ. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này. Chúng ta cần nhìn ngắm Con Thiên Chúa lớn lên từ từ như bao thai nhi khác. Cần hơn 9 tháng để có thể mở mắt chào đời, cất tiếng khóc oe oe. Mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Ðức Giêsu Con Thiên Chúa. Làm hại thai nhi là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.

CHÚA NHẬT THỨ TƯ MÙA VỌNG
Lc 1, 26 - 38
John Nguyễn

1. Ma-ri-a nhỏ bé yếu đuối nhưng được Chúa chọn...
Dưới nhãn quan Ki-tô giáo, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, khởi đầu một công trình hết sức lớn lao của Thiên Chúa: cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công cuộc vĩ đại này bắt đầu một cách rất âm thầm, nhỏ bé tại một làng quê, với một thôn nữ yếu đuối chẳng mấy người biết. Điều này làm ta nhớ tới dụ ngôn hạt cải của Đức Giê-su: «Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng» (Mc 4,31-32). Qua kinh nghiệm tâm linh của nhiều vị thánh, ta thấy Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Có như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: «Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh» (1Cr 1,27).

Thật vậy, theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét về tài năng, thông minh, học vấn, sức khỏe, sắc đẹp, v.v... chắc hẳn Ma-ri-a không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc chắn còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Ma-ri-a rất nhiều. Nhưng Ma-ri-a đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình vĩ đại này. Ngài chọn Ma-ri-a vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng «vì bà đẹp lòng Thiên Chúa». Và Ngài đã thành công trong việc chọn Ma-ri-a, đang khi có những người khác được Ngài chọn đã làm «hỏng việc» của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Sa-un (x. 1Sm 9,17; 13,13-14); tông đồ Giu-đa (Mt 26,47-50)...

Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài lòng như trường hợp của Ma-ri-a, và cũng có những người làm «hỏng việc», khiến Ngài «thất bại» (từ gượng dùng) hoặc không hài lòng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài?

2. Ma-ri-a xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa

Một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là ta biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Ngài, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Ngài. Đó chính là tinh thần tự hủy mà Đức Giê-su là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Ma-ri-a.

Theo tư tưởng lưu truyền trong giới Công giáo, khi được thiên sứ báo tin, Ma-ri-a đang dự định sống trọn đời đồng trinh để phụng sự Thiên Chúa. Việc đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt thị phi của thiên hạ, vì người đương thời quan niệm sai lầm rằng một phụ nữ sống độc thân là một hình thức bị chúc dữ. Nhưng khi biết thánh ý Thiên Chúa muốn chọn mình làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, thì lập tức nàng từ bỏ tất cả mọi ý muốn hay dự định riêng của mình để vâng theo ý muốn của Thiên Chúa: «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói».

3. Được Ngài chọn, hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài

Nếu Thiên Chúa chọn ta thì là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là một công cụ Ngài dùng mà thôi. Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người sử dụng công cụ. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người sử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu, thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có thể gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của ta. Đức Giê-su có nói: «Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho» (Mt 6,33). Vì thế, việc của ta, hãy hoàn toàn phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan phòng tài tình như Ngài sẽ không để việc của ta bị thất bại chỉ vì ta đã toàn tâm toàn ý lo cho việc của Ngài. Hãy tin tưởng chắc chắn như thế!

4. «Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã»

Những người được chọn mà làm «hỏng việc» Ngài - như vua Sa-un, Giu-đa - có thể là những người ban đầu rất nhiệt thành, quên mình, hoạt động vì Thiên Chúa và tha nhân chứ không vì mình. Nhưng tới một lúc nào đó người ấy bị tha hóa, đã đặt mục đích hay công việc của mình lên trên mục đích hay công việc của Ngài, đặt ý mình lên trên ý Ngài, hoặc muốn lèo lái công việc của Ngài theo ý mình, v.v... Những người này lúc ban đầu nhờ nhiệt thành và quên mình nên đạt được danh vọng, quyền lực, tiền bạc... nhưng về sau họ đã bị chính những thứ đạt được ấy làm biến chất, tha hóa, khiến họ bị mất ơn Chúa và trở thành những kẻ phá hoại hay cản trở việc Chúa. Do đó, mọi Ki-tô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ý lời của thánh Phao-lô: «Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12). Coi chừng kẻo mình trở thành như cây chổi cùn, sau khi đã tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi, thì cuối cùng mình lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy, tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần thiết. Hãy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! Vì thế, đời sống thanh đạm, tinh thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.

5. Người được chọn sẽ bị thử thách

Ai được Thiên Chúa chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi - phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ. Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn: «Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang» (Rm 8,30). Cách thức
«làm cho nên công chính» của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: «Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn» (Dt 2,10); «Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ» (1Tm 3,10); «Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội» (1Pr 1,7). Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18).

Chính nhờ những đau khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên Chúa gửi tới. Hãy tin tưởng: «Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát» (Mt 10,22; 24,13).

Cầu nguyện

Lạy Cha, để yêu thương và cứu rỗi nhân loại, Cha cần rất nhiều người cộng tác. Cha chọn người cộng tác theo sự tự do của Cha. Con sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Cha, nếu Cha cần đến con. Một khi được kêu gọi, con quyết sẽ toàn tâm toàn ý sống và làm tất cả mọi sự theo sự hướng dẫn của Cha, bất chấp những đau khổ thử thách mà Cha dùng để rèn luyện con. Xin cho con trung thành với quyết tâm ấy.

VAI TRÒ CỦA MẸ MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Lc 1, 26 - 38
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nhật 4 mùa vọng như có một cái gì đó xôn xao, lắng đọng.Tiếng hô trong sa mạc: " Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi " xem ra lẻ loi, đơn điệu. Tiếng hô vang của Gioan Tẩy giả vẫn là tiếng mời gọi con người hãy tin vào lời chứng của Gioan.Tiếng hô ấy, hôm nay như ngừng lại, để cho tiếng của sứ thần Gabrien vang lên: tiếng của Hồng ân, tiếng của ơn Cứu độ. Và xem ra như có một âm vang nào đó từ hơn hai ngàn năm vẫn còn hiện nguyên hình, vẫn còn rõ nét: Maria đã thưa Xin Vâng để cho Đấng Cứu Thế được đi vào lịch sử nhân loại.

Tin mừng của Luca trong trích đoạn 1,26-38 như một lời nhẹ nhàng, thi vị trong một khung cảnh và bầu khí vừa thanh thoát, vừa thinh lặng, thánh thiện và mang tính cách rất tiềm ẩn: ý định Thiên chúa sẽ bùng lên khi có sự chấp nhận của một người nữ. Nhân loại lúc đó và muôn thời vẫn đứng trước những thách đố, lời mời gọi hết sức khẩn thiết mà lại hoàn toàn tự do. Sự việc không đơn giản như nhân loại suy nghĩ, lầm tưởng. Cái trớ trêu lại rơi vào một người nữ, con nhà đạo đức, hết sức gia giáo, đã nguyện giữ mình trong sạch để hoàn toàn thuộc về Thiên chúa. Nhưng nghịch lý của Tin Mừng luôn đeo đuổi nhân loại.

Gioan Tẩy giả đã dám sống một cuộc đời khác người: ăn uống đơn giản, quần áo cũng giản đơn không giống ai, ông chỉ nhận là tiếng reo vang trong hoang địa để chuẩn bị con đường cho Chúa Cứu Thế đến. Gioan cũng đã dám nói lên sự thật của Chúa về một con người có quyền hành tuyệt đối ở đời nhưng lại sống loạn luân, không bằng con thú dữ, thế là Ông đành mất đầu vì Tin Mừng.

Còn cái nghịch cảnh rất gần lại là con Thiên chúa lại chấp nhận sinh ra nơi hang bò lừa,không bằng một con người đầu đường xó chợ. Maria đã chấp nhận cái đảo lộn nhất của Tin Mừng vì tin vào lời Chúa. Lời xin vâng của Maria: "Vâng, này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1,38 ).Thưa xin vâng, Maria đã đón nhận chính lời hồng ân của Chúa và như thế hạnh phúc của Chúa đã đeo đuổi suốt cuộc đời Mẹ.

Chấp nhận để Chúa đến trong cung lòng thánh thiện,tinh ròng của mình, Mẹ Maria cũng mời gọi mọi người có lòng tin đừng yên thân trong tháp ngà, trong ích kỷ, trong vỏ ốc của đời mình mà giam hãm mình trong một số công thức, kinh kệ, lề luật như các người pharisiêu và biệt phái xưa. Dám sống Tin Mừng nghĩa là luôn phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến, dám bán tất cả mọi sự để theo Chúa Giêsu, dám bán gia tài để mua thủa ruộng mà tìm kiếm viên ngọc quí.

Tin Mừng là như thế và đón nhận mầu nhiệm giáng sinh là đón nhận sự phiền nhiễu của cuộc đời,của lịch sử con người. Cái phiền nhiễu ấy lúc nào cũng có và lúc nào cũng đòi hỏi con người phải phấn đấu lướt thắng để sống Tin Mừng Nhập Thể, Tin Mừng đau thương và Tin Mừng hạnh phúc vinh quang. Chúa đã đến trong lòng trinh nữ Maria,liệu ta có dám loại trừ mọi tội lỗi, sự xấu, ma quỉ và những quyến rũ nặng nề nhất để sống cái chân thật của đời ta hay không? Mẹ Maria đã dám sống cái nhiễu và vượt thắng cái nhiễu vô cùng bất lợi để đón nhận tin vui:
cưu mang Con-Thiên-Chúa-Làm-Người.

Lạy Mẹ Maria, xin ban cho chúng con lòng quảng đại và luôn biết nói lời xin vâng như Mẹ.

Nguồn vietcatholic.org

 

1561    19-12-2014 07:59:41