Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Chúa Nhật XIV Thường Niên A năm 2014

  1. Khiêm Nhường
  2. Học Hiền Lành Và Khiêm Nhường Nơi Chúa Giêsu
  3. Hãy Mang Lấy Ách Của Chúa
  4. Nép Mình Bên Chúa
  5. Hãy Đến Cùng Ta
  6. Sự Khiêm Nhường Của Thiên Chúa
  7. Mang Lấy Ách Của Chúa
  8. Hãy Mang Lấy "Ách" và "Gánh" Của Đức Giêsu
  9. Ứng Xử Hiền Hậu và Khiêm Nhường
  10. Mang Ách Của Chúa, Sẽ Gặp Được Bình An.
  11. Diệu Hiền
  12. Thiên Chúa Khiêm Hạ
  13. Hiền Lành Và Khiêm Nhường
  14. Lòng Khiêm Hạ
  15. Vượt Qua Khổ Đau
  16. Hãy Khiêm Nhượng Và Hiền Lành
  17. Người Bé Mọn Của Tin Mừng
  18. Bé Mọn Thôi Chưa Đủ
  19. Gánh Nặng
  20. Mối Liên Lạc Giữa Trời Và Đất
  21. Sống Theo Tinh Thần
  22. Cha Đã Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn
  23. Chúa Nhật 14 Thường Niên
  24. Hãy Hiền Lành Và Khiêm Nhường

KHIÊM NHƯỜNG
Mt 11, 25 - 30

Trong quyển đời sống nhân bản và đôi nét về tâm lí chiều sâu định nghĩa người kiêu ngạo là người đánh giá khả năng mình quá cao (về khả năng thực hoặc tưởng tượng).Tính kiêu ngạo đặt trên một cơ sở tự tôn vượt trội nào đó. Người ta tự kiêu về tên tuổi, về tài sản của mình, hoặc về sự nghèo khó của mình. Có một số người lại tự kiêu về việc mình biết im lặng. Cũng có những người lại tự kiêu về việc mình biết tự kiêu, đây là một loại quá cỡ. Con người ta thường cố tự kiêu bất cứ khi nào có thể.... Có thể nói kiêu căng là tự đề cao mình quá sức, và tự đặt mình lên trên người khác, hoặc không cho người khác ngang hàng với mình. Người nào đã mang trong mình sự kiêu ngạo sẽ có rất ít bạn thân, và không còn ai muốn đến gần họ. Có một nhân vật đến trần gian hơn hai ngàn năm nay, toàn tài toàn đức, cao sang hiển vang, không có một từ ngữ nào có thể diễn tả hết về Ngài, trên trời Ngài là Con Chúa, dưới đất là cháu vua, nhưng suốt cuộc đời Ngài là một chuỗi khiêm nhường, sống và nâng đỡ những người "thấp cổ bé họng". Ngày ngày Ngài không ngừng kêu gọi hãy đến "học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường". Người đó chính là Đức Giêsu, Người đã được Phêrô tuyên xưng "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống". Tuy là Con Chúa nhưng Ngài lại rất khiêm nhường với chúng sinh qua con đường:

1. Tự hạ

Tự hạ là hành động của người ở địa vị cao lại hạ mình xuống với một người dưới thấp, giống vua tôi lại hạ mình xuống với thần dân. Hay trong cuốc sống, cũng có rất nhiều trường hợp hạ mình như thế! Nhưng nêu so sánh với Con Thiên Chúa xuống thế làm người thì việc vua hạ xuống với thần dân vẫn còn kém xa. Đó chỉ là hành động của con người hạ mình xuống với con người, còn Đức Giêsu là Con Chúa hạ mình xuống thế làm con người. Vì người ta cho dù ở địa vị nào thông thái tài giỏi đến đâu, đối với Ngài vẫn chưa bằng một hạt cát ở sa mạc, nhưng nơi Ngài tuyệt nhiên không có một tí gì là kiêu căng. Trái lại, Ngài vẫn là một tấm gương trên con đường khiêm nhường, hạ mình sâu thẳm lạ lùng, làm con của một người thợ mộc âm thầm nghèo nàn, khoảng cách giữa Ngài với nhân loại như không còn nữa, gần gũi thân thiết như một người cha luôn cảm thông nâng đỡ con mình.

2. Đồng hành với người nghèo hèn

Mới đây người ta thống kê cho thấy tài sản thế giới dần dần thâu tóm vào một số đại gia giàu có, chỉ hai trăm năm mươi người giàu nhất thế giới đã chiếm bốn mươi phần trăm tài sản thế giới. Cho thấy xã hội ngày càng phân ra hai " chiến tuyến" rõ rệt, một bên là những người có thế lực giàu có, còn một bên là những người nghèo khổ, thiếu ăn. Nếu có lựa chọn thì không ai chọn cảnh sống nghèo khổ, thiếu ăn. Nhưng Con Thiên Chúa lại làm thế! Ngài muốn đồng hành chia sẻ đau khổ và cảm thông. Do đó, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong chốn cơ hàn, nơi hang lừa máng cỏ, sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo nàn, dưới mái nhà thợ mộc âm thầm, khi lớn lên thì lại làm bạn với những người thuyền chài thất học, gần gũi với những người "tay lấm chân bùn". Khi từ giã cõi đời lại chấp nhận cho quân lính hành hạ, sỉ nhục rồi chịu tử hình trên cây thập giá giữa hai tên trộm cướp...

3. Chấp nhận sống thanh bần.

Nhờ đức thanh bần mà người ta có thể sống giản dị, dễ hoà đồng với mọi người, nhất là những người nghèo khổ, biết sống cho họ vì họ. Chính vì sống thanh bần mà Đức Giêsu đã chấp nhận thái độ khiêm tốn tự hạ. Khi chịu phép rửa ở sống Giodan, Chúa Cha đã mặc khải cho biết "đây là Con Ta yêu dấu", Ngài cũng không có một thái độ cử chỉ nào khác người thường. Hơn nữa, Ngài vẫn chấp nhận cho người Do Thái nhắc đến gia đình bà con dưới đất của Ngài, là những người hạ lưu tầm thường... Chính cuộc sống thanh bần trong tâm hồn chúng ta cũng sẽ làm cho mình dễ gần, dễ đến.

Lạy Chúa, Xin cho con biết ý thức mình là công cụ của Chúa, để con biết khiêm nhường trong mọi công việc. Và khi con càng khiêm nhường thì càng trở nên giống Chúa, lại càng có khả năng thi hành cách hữu hiệu như Chúa muốn. Amen

HỌC HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG NƠI CHÚA GIÊSU
Mt 11, 25 - 30

Chúng ta thường nghe nói: "Học ăn, học nói, học gói, học mở" hay "Học, học nữa, học mãi". Thật vậy, ai trong chúng ta từ nhỏ đến lớn không nhiều thì ít đều phải học. Học về mọi phương diện và mọi lĩnh vực. Hôm nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy học nơi Người: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mt 11, 29b)

Càng sống hiền lành và khiêm nhường chúng ta sẽ càng nên giống Chúa Giêsu hơn. Vả lại đó cũng là mối phúc mà Chúa Giêsu đã nói trong bài giảng trên núi: "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp" (Mt 5, 4). Thế nào là hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giêsu?

Hiền lành khác với nhu nhược hay xu hướng. Người hiền lành chắc chắn không phải là người hay tranh giành, ghen tỵ, ganh ghét ham thích ăn thua đủ với người khác. Người hiền lành chính là người biết sống hoà nhã và tôn trọng người khác. Chúa Giêsu luôn tiếp xúc với mọi hạng người từ những trẻ nhỏ đến người lớn, từ người tự cho là công chính đến những người được coi là tội lỗi công khai.

Khiêm nhượng là sống thật với con người của mình. Mỗi người chúng ta đều có cái hay cái dở khác nhau. Với cái hay thì chúng ta cố gắng phát huy còn cái dở thì cố gắng khắc phục. Thậm chí khi cần chúng ta còn cần nên hạ mình xuống trước người khác. Hạ mình không phải là mình chịu thua nhưng hạ mình như thế là mình đang chiến thắng. Chiến thắng chính mình. Bởi lẽ, khuynh hướng kiêu ngạo và ích kỷ luôn ngự trị trong mỗi người chúng ta. Người khiêm nhường luôn được mọi người yêu thương. Chính Chúa Giêsu từ một vị Thiên Chúa mà đã hạ mình xuống để sống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Thánh Phaolô đã nói trong thư gởi cho tín hữu Philipphê: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 6 - 8)

Phải nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Vị Thầy rất đáng để chúng ta học đòi bắt chước. Thầy Giêsu không dạy bằng lời nói suông nhưng luôn dạy bằng gương sống. Hãy tiếp tục chiêm ngắm Chúa Giêsu nhiều hơn. Đồng thời hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta khi chiêm ngắm Người thì cũng biết tập sống hiền lành và khiêm nhường như Người. Đó là điều mà Người đang tha thiết mong mỏi nơi từng người chúng ta.

HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA
Mt 11, 25 - 30

Anh chị em thân mến,

Một giáo dân hỏi một vị linh mục: Thưa cha, sao Chúa khó quá? Sao Hội thánh mình cũng khó nữa? Chúa Nhật không đi lễ thì có tội. Chỉ được một vợ một chồng mà thôi; ngoài đời người ta vợ nhóc luôn. Rồi, sao không cho các linh mục có vợ nữa? Con nghĩ cấm chuyện này là không đúng, vì là trái với tự nhiên. Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ mà; đâu phải dựng nên đàn ông không đâu? Chúa nói ách Chúa êm ái, gánh của Chúa nhẹ nhàng, con thấy không nhẹ chút nào cả! Ông cha sở nghe nói cười xòa, trả lời: Mà ông coi, Hội thánh đâu cấm người đi tu không được có vợ! Linh mục không có vợ chính là: tự nguyện sống độc thân vì Chúa và vì Nước Trời. Nếu linh mục không sống độc thân được, nên chọn đời sống gia đình, đừng nên bắt cá hai tay. Ông thấy có phải không? - Dạ dạ... Cha sở nói tiếp: Mà nè, nếu ông muốn, hãy làm đơn xin Tòa Thánh cho phép các linh mục được cưới vợ đi; nhưng họ nên nhớ, khi Tòa Thánh chưa chấp thuận, phải tuân phục Hội thánh, không được xé rào đấy nhé! Mọi người xung quanh nghe câu nói đều cười ầm lên....

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có hai điều chúng ta cần suy niệm:

a/.Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn. Có người sẽ nói: Không lẽ Chúa ghét người khôn ngoan, cao trọng hay sao? Sao Chúa lại yêu thương trẻ nhỏ mà không phải người lớn? Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã nói: Nước Trời là của trẻ nhỏ và của những người giống như chúng. Có người sẽ hỏi: Tại sao phải ưu tiên cho trẻ nhỏ? Có phải đây là một định kiến để lật đổ phẩm trật đã có sẵn không? - Thưa không. Chúa Giêsu yêu trẻ nhỏ không phải vì chúng dễ thương hơn người lớn. Người không yêu thương ai bằng tình cảm bên ngoài. Đứa trẻ được Chúa yêu thương, là hình ảnh trẻ con luôn tin tưởng, trông cậy vào cha mẹ. Trẻ con không trông cậy vào mình; chúng chỉ trông cậy vào người lớn. Tâm hồn chúng hoàn toàn trống rỗng cần được lấp đầy. Chính vì thế Chúa luôn sẵn sàng lấp đầy tâm hồn trẻ thơ ơn sủng sung mãn của Người, vì Người luôn muốn ở trong tâm hồn của trẻ thơ; nơi đây cũng là đền thờ tốt lành của Chúa Thánh Thần...

b/ Ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến, Ta sẽ thêm sức cho...Hãy mang lấy ách của Ta...vì ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng. Chúa Giêsu nói, ách Chúa êm ái, gánh Chúa nhẹ nhàng, Chúa có mâu thuẫn không? Đã là ách và gánh làm sao nhẹ nhàng được?

Một bà nhơn đức trong họ đạo, một hôm đến gặp cha sở và nói: thưa Cha, bà bạn của con vừa nói với con: khi tôi dâng mình cho Chúa rồi, y như là Chúa để cho gặp tai ương, giống như Chúa "chơi" tôi vậy. Bà nên nhớ, bà đừng có dâng mình, vì dâng mình xong, Chúa phát cho bà một gánh nặng là bà phải chạy dài ngay...Thưa cha, con thấy bà bạn con hiểu biết về Chúa sai lạc quá! Dù vậy con ít lời lắm. Con không biết nói sao cho bà hiểu; nên con muốn trình cha, để cha biết, có dịp cha giải thích lại cho bà ta....

Rõ ràng câu chuyện trên đây cho ta thấy, ngay cả người có đạo lâu năm cũng không hiểu mấy về Chúa. Ách của Chúa chính là đạo lý của Tin mừng; ai muốn theo Chúa phải tuân giữ đạo lý này; đó là: tin tưởng - khiêm tốn - vâng phục. Ách của Chúa êm ái nhẹ nhàng, không phải là vì đó là gánh nặng dễ dàng mang trên vai. Đó chính là gánh nặng được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu và nó cũng được chúng ta vác trong tin yêu nữa. Thử hỏi có ai vác gánh nặng của mình mà bước đi trong vui vẻ, hăng hái, lại cảm thấy gánh đó quá nặng không thể mang nổi không? Hay là chúng ta phải nói ngược lại?

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Nước Trời dành cho kẻ bé mọn, chính là những người luôn cần đến, những người sẵn sàng thành tâm đón nhận. Mỗi người Kitô hữu chúng ta có phải là kẻ bé mọn, đáng được nhận lãnh Nước Trời không? Hãy đến với Ta, những ai vất vả mang gánh nặng nề: Chúa mời ta đến để Chúa chia sớt gánh nặng cuộc đời cho chúng ta. Ta có tin không? Ta có sẵn sàng đến với Chúa không?

NÉP MÌNH BÊN CHÚA
Mt 11, 25 - 30

Một người quá thông minh và nhiều kiến thức có thể trở thành kiêu căng về những gì mình đạt được. Người Hy lạp vốn nổi tiếng về khôn ngoan và thông biết đã coi việc giảng dạy của Phaolô về Thập giá của Đức Giêsu Kitô là sự điên rồ. Nhà du hành vũ trụ người Nga Gadadin đã kiêu căng nói rằng: "Tôi đã bay khắp cùng trái đất mà chẳng thấy bóng dáng của Thiên Chúa ở đâu cả". Quả thật, sự hiểu biết của những con người kiêu căng đã làm cho họ xa rời Thiên Chúa vốn là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan. Triết gia Bacon đã nói: "Kiến thức nông cạn đưa con người xa rời tôn giáo, ngược lại kiến thức sâu xa dẫn đưa con người lại gần Tôn giáo". Như thế, những hiểu biết của con người dù có uyên thâm cỡ nào đi nữa mà làm cho họ trở nên xa cách tôn giáo hay xa cách Thiên Chúa thì chỉ là những kiến thức hàm hồ và nông cạn theo nghĩa sâu xa nhất của nó.

Tin mừng hôm nay chó chúng ta thấy được rằng: Những con người đơn sơ và khiêm tốn sẽ được hiểu biết về Thiên Chúa nhờ họ biết đón nhận Đức Giêsu Kitô và những lời giảng dạy của Ngài. Trong khi đó, những con người tự kiêu, tự phụ về sự thông hiểu của mình đã khước từ Đức Giêsu Kitô và cho Ngài là kẻ mất trí và bị quỷ ám.

Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô là một mầu nhiệm, một siêu lý đối với con người, nên con người không thể biết rõ về Ngài nếu không được Thiên Chúa ban ơn hiểu biết ấy. Mầu nhiệm nơi Đức Giêsu Kitô "không phải là một vách tường chận đứng trí óc của chúng ta, nhưng là một biển cả, trong đó trí óc chúng ta chìm đắm" (Gustave Thibon). Chính sự khiêm nhường sẽ đưa dẫn con người đến với Thiên Chúa. Khuôn mẫu của sự khiêm nhường ấy chính là Đức Giêsu Kitô "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" Chính Ngài là vị Vua Messia hiền lành và khiêm nhu mà sách tiên tri Dacaria nói đến trong bài đọc một hôm nay.

Đức Giêsu Kitô đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha bởi lẽ Ngài biết rõ về Cha và Cha cũng biết rõ Ngài. Chữ "biết" trong Thánh kinh có nghĩa là có sự liên hệ cá nhân với người mình biết và có sự tiếp xúc thân mật với người đó. Như thế, biết Thiên Chúa chính là nhập vào sức sống lớn lao và một dòng ánh sáng vĩ đại phát ra từ trái tim Thiên Chúa và trở lại với Ngài.

Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha. Đây là một hồng ân cao vời mà con người đã đón nhận một cách nhưng không . Ân ban này hoàn toàn miễn phí, chỉ cần người nhận biết mở lòng mình ra và đơn sơ đón nhận. Nhưng đây không phải là chuyện dễ dàng đối với những người quá thông minh và hiểu biết! Bởi đó, rất có thể sự khôn ngoan của loài người là nguyên cớ cản trở lớn nhất cho việc họ tìm đến với Thiên Chúa. Khi thấy mình quá giỏi, quá tài, con người chỉ lo củng cố mình và coi mình quá lớn lao đến nỗi không còn chỗ cho Thiên Chúa trong cuộc đời của họ nữa. Họ thấy mình quá quan trọng đối với nhân loại và nghĩ rằng mình có thể cứu nhân loại khỏi những đau khổ trong cuộc đời này. Sai lầm này xem ra chẳng tốt đẹp cho tha nhân mà cũng chẳng tốt lành gì cho bản thân của họ nữa.

Chuyện kể rằng: "Có một máy bay nhỏ chở hành khách đang bay ở độ cao trung bình và với vận tốc vừa phải. Hành khách trên máy bay gồm một vị giáo sĩ, một hướng đạo sinh, một giám đốc sản xuất điện toán. Đang bay trên bầu trời thì bỗng nhiên động cơ của máy bay không hoạt động nữa. Gió rít mạnh làm chiếc máy bay rơi nhanh. Ba chiếc dù được đưa ra, nhưng trên máy bay có tất cả bốn người. Làm sao đây?

Viên phi công khóc và nói: "Tôi phải có một cây dù, vì tôi có vợ và ba đứa con thơ." Nói đoạn, viên phi công nhanh tay chộp lấy một cái dù và nhảy vội ra khỏi máy bay. Ba người còn lại nhìn nhau. Ông Giám độc điện toán kêu lên: "Ồ, chắc là tôi phải cần một cái dù. Tôi là người thông minh nhất thế giới và thế giới đang cần tôi". Nói chưa dứt lời, ông nhanh tay luồn dây vào vai rồi vội nhảy ra ngoài.

Vị giáo sĩ thở dài buồn bã, quay sang nói với anh hướng đạo sinh: "Này con, con hãy lấy chiếc dù cuối cùng và nhảy ra đi. Cha đã già rồi, cha sẵn sàng để đi gặp Chúa. Con còn trẻ, tương lai huy hoàng đang chờ đợi con. Con không thể chết được". Nhưng người hướng đạo sinh mỉm cười nói: "Cha già đáng kính và dễ thương của con ơi. Cha hãy yên tâm. Vẫn còn đủ dù cho hai cha con mình. Người tự hào là thông minh nhất thế giới vừa nhảy ra khỏi bằng chiếc ba lô của con".

Hãy tự khiêm tự hạ trước mặt Thiên Chúa để chính Ngài sẽ hành động trên chúng ta. Hạnh phúc cho những ai biết nép mình bên Chúa như đứa con thơ trong tay người mẹ hiền của mình.

Hãy học biết Thiên Chúa theo ơn Ngài ban cho chúng ta và theo những gì Đức Giêsu Kitô đã dạy chúng ta. Biết Thiên Chúa chính là sống thân tình với Ngài, là bơi lội trong biển tình thương và ân sủng của Ngài. Đừng đòi hỏi Thiên Chúa bất cứ điều gì chỉ nhằm làm thoả mãn tình hiếu kỳ và kiêu căng của chúng ta. Chúa luôn ở gần những tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ và không ngừng ban ơn cho họ.

HÃY ĐẾN CÙNG TA
Mt 11, 25 - 30

Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần đi xa cùng với cái cảm giác quây trở về. Trên chặng đường vất vả, với sự chờ đợi cho đến nơi.

Khi đến nơi thì bao nhiêu nhọc nhằn vất vả không còn nữa. Sự mệt nhọc của con đường đi, với những nắng mưa của thời tiếc, những cơn nóng bức, những làn gió mạnh, những bụi bẩn hoà lẫn với khói xe, tất cả những thứ dường như không tồn tại trên đời. Không phải vì chúng ta đã đến được nơi an toàn, nhưng vì chúng ta đã về bên những người thân yêu của mình. Ở bên cạnh những người thân yêu để tận hưởng cuộc sống với họ thì còn hơn cảm giác bình an của riêng mình. Cũng chính vì đến được bên cạnh những người thân yêu, nên bao nhiêu sự mệt nhọc, lo sợ đều tan biến đi. Giờ đây chỉ còn cảm giác êm ái nhẹ nhàng. Tình yêu thương làm cho cuộc sống con người trở nên nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn.

Chúa Giêsu kêu mời: "Hãy đến với Ta, tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho".

Ngài nhìn thấy con người bị biết bao sức nặng của trần thế chồng chất trên đôi vai nhỏ bé của họ. Ngài nhìn thấy những người đang gục ngã thảm hại, trước những khó khăn nhọc nhằn mà họ không thể nào vượt qua được. Ngài cũng nhìn thấy có những người đang lê lết, bước đi nặng nề, nhưng họ không muốn cho gánh nặng của mình nhẹ đi, nên họ đang chết dần chết mòn trong những gì mà họ mang lấy. Họ tưởng rằng như thế là vinh quang, như thế là hạnh phúc, họ chỉ bám vào những gì mình suy tưởng, chính vì thế họ không còn nhìn thấy gì ngoài bản thân mình. Họ không còn biết lắng nghe, không tiếng nói nào có thể thâm nhập được vào trong con người của họ. Họ tưởng mình tài năng, tưởng mình đạo đức thánh thiện, họ sống bám vào những ý tưởng đó, họ cũng sẽ chết với những gì họ suy nghĩ, vì không chịu vượt ra khỏi chính mình để biết nhìn, biết lắng nghe và thay đổi cách sống mà chạy đến với Chúa để Ngài nâng đỡ bổ sức cho. Họ là những người khôn ngoan mà Chúa Cha đã không cho nhìn thấy những ý định của Thiên Chúa.

Nếu giờ nầy Chúa Giêsu hiện diện trước mặt mỗi người chúng ta, Ngài sẽ cám ơn Chúa Cha như thế nào về mỗi người trong chúng ta? Ngài cám ơn vì chúng ta là những người bé mọn biết chạy đến với Thiên Chúa, biết mang lấy gánh nhẹ nhàng của Ngài vì chúng ta nhìn thấy, nhận biết thánh ý Chúa để tuân giữ và thi hành trong cuộc sống. Hay Ngài cám ơn vì mọi việc không cho chúng ta nhìn thấy, không cho chúng ta nhận biết, bởi chúng ta chỉ biết có chính mình mà không còn lắng nghe, không còn nhìn thấy gì ngoài con người ích kỷ của chúng ta. Như vậy thì Hồng Ân cứu rỗi của Ngôi Hai Thiên Chúa có ích lợi cho biết bao người, còn bản thân chúng ta thì không được gì hết sao?

Chúng ta để ra một ít phút nhìn lại đời sống, nhìn vào những việc làm đã qua: chúng ta không có thời gian đủ để lo cho công việc cứ bao vây, chìm ngặp trong những tính toán cùng với biết bao dự án cho tương lai. Chúng ta cũng nhìn thấy những người chung quanh mình sao quá tệ, họ không biết làm ăn, không biết toan tính cho cuộc sống, không nhìn thấy những lợi lộc, không biết nhanh nhạy để chộp lấy thời cơ, họ không đủ khôn ngoan. Những lúc đó, là sự khôn ngoan của con người, sự khôn ngoan để tìm những lợi lộc trần thế, sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết Mầu Nhiệm về Thiên Chúa, vì mãi đi tìm những điều không thuộc về Thiên Chúa.

Nếu chúng ta cũng sống với tất cả những gì của trần thế để lo cho cuộc sống của mình và cho nhiều người khác, đồng thời chúng ta dâng lên Chúa những lo toan, những tính toán của mình, xin Chúa hướng dẫn để biết sống theo thánh ý Chúa. Chúng ta cũng nếm trải những khó khăn vất vả, những khổ nhọc của con người và vượt qua cách tốt đẹp vì có Chúa ở cùng. Đó là chúng ta biết đến với Chúa, cùng làm việc với Chúa, cùng mang những gánh của Chúa, nên chúng ta đã vuợt qua thật êm ái và nhẹ nhàng. Ở bên Chúa mọi khổ nhọc như tan biến đi, chỉ còn tình yêu ngự trị.

Xin Chúa ban thêm đức tin cho mỗi người để biết siêng năng chạy đến với Chúa trong từng giây phút của cuộc đời.

SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA
Mt 11, 25 - 30

Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng nhưng cũng là Đấng khiêm tốn và quãng đại vô cùng. Ba Ngôi cho đi tất cả, không hướng về bản thân mình nhưng hướng về hai Ngôi kia trong một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn lực và là mẫu mực về tình yêu thương phục vụ cho loài người chúng ta.

Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc loài người. Ngài là Tạo Hoá mà lại rất mực quan tâm đến loài thụ tạo chúng ta. Ngài biết rõ mọi sự và có dư khả năng để bắt loài người luôn vâng lệnh Ngài. Tuy nhiên, khi đến với loài người, Ngài tỏ lòng từ bi, nhân ái đối với loài người. Ngài là Tạo hóa mà lại chấp nhận ban cho loài người quyền tự do: tự do vâng phục và tự do... chống đối Ngài, có khả năng xúc phạm đến Ngài. Thiên Chúa vẫn một lòng thương cho dù con người có lỗi phạm nặng nề. Điều đó biểu hiện nơi Chúa Giêsu, nơi lòng thương xót của Ngài. Trên Thánh giá, Chúa Giêsu còn nói lời tha thứ cho những kẻ giết hại mình: xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết. Từ lúc chưa nhập thể thì Ngôi Hai đã biết mình sẽ nhập thế cứu chuộc cho ai rồi: những người tội lỗi, đang xa lìa Chúa và thường xuyên lỗi lời Chúa dạy. Dầu con người hay lỗi phạm đến thế, Chúa vẫn tìm dịp cho con người hoán cải. Có lúc Chúa cảnh cáo và đe phạt nặng nề, nhưng không tiêu diệt. Khi con người hoán cải thì Ngài lại thương tiếp tục ban ơn, thể hiện lòng nhân từ đối với loài người tội lỗi. (vd: Xh 33, 3t )

Sự khiêm nhường của Thiên Chúa biểu lộ rõ nơi Chúa Giêsu, một tấm gương khiêm nhường tuyệt hảo. Từ khi nhập thể, Ngài đã biểu lộ rõ sự khiêm nhường: đến ở trong một gia đình nghèo, trong một làng nghèo miền Galilê xa thủ đô. Ngài sinh trong dòng tộc vua Đavid nhưng là một dòng tộc lúc đó đã hết quyền và nghèo khổ. Ngài còn chấp nhận sinh ra trong hang chiên lừa, bị bắt bớ, bị coi thường. Lúc đi giảng đạo, chắc Chúa phải nghe nhiều lần câu: Ông ấy là con bác thợ mộc Giuse, ở Nazarét nào có cái chi hay, còn ông này chúng ta biết rõ từ đâu tới... (x.Mt 13,55). Chúa Giêsu đã khiêm tốn chịu sự hiểu lầm đó và phó thác hoàn toàn cho Chúa Cha định liệu. Ngài đi rao giảng nhưng kết quả trước mắt không được mỹ mãn, Ngài lại bị kết án oan do sự phạm thượng của con người. Ngài lại chẳng oán phạt. Ngài trở nên con chiên hiền lành trong tay Chúa Cha và để cho loài thụ tạo mặc sức hành xử! Đó không phải là gương khiêm tốn và phó thác vô cùng của Thiên Chúa sao?

Noi gương Chúa, chúng con sẽ sống đạo trong tinh thần khiêm hạ và nhận ra sự thật về chính mình. Chúng con chỉ là loài hay chết, đầy giới hạn và yếu đuối. Tất cả là nhờ ơn Chúa. Do đó, chúng con cần hạ mình, chấp nhận cuộc sống nghèo, biết cộng tác với ơn Chúa và nổ lực đáp trả lời Ngài mời gọi. Chúng con xin cám ơn Chúa đã hiện diện và ban ơn từng giây phút trong cuộc sống của mỗi người chúng con. Chúng con là loài thụ tạo, chẳng đáng là gì trước mặt Chúa vậy mà nhiều lúc lại quá ngạo mạn khi cho rằng Chúa phải cho mình điều này điều kia. Chúng con thật quá vô tình khi đi lễ và giữ điều luật cách bó buộc: để khỏi bị phạt chứ không vì thương mến Chúa. Chúng con chưa biết học hỏi sự khiêm tốn và tình thương Chúa biểu hiện nơi Đức Kitô mà chỉ biết có mình! Chúa đã yêu thương hết mình vì chúng con, chẳng tiếc gì kể cả Người Con Một, vậy mà khi làm được chút việc lành (mà nhiệm vụ chúng con phải làm), chúng con đòi Chúa phải đáp ứng những yêu sách của chúng con; khi Chúa nhờ vác chút thập giá, chúng con đôi co với Chúa và tìm cách thoái thác dù biết rằng điều chúa muốn là tốt cho chúng con.

Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con tỏ ra nông nổi, không biết nhận ra và đáp trả tiếng Chúa, xin Chúa thứ tha và ban ơn trợ giúp cho đức tin yếu hèn của chúng con. Chúng con sẽ noi theo tinh thần khiêm tốn của Người mà phục vụ và chu toàn trách nhiệm được giao trong tình yêu Chúa.

MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA
Mt 11, 25 - 30

Cuộc sống nơi miền quê cho chúng ta kinh nghiệm về làm đồng, nơi đó chúng ta chúng kiến cảnh những con trâu, bò mang lấy ách để cày những thửa ruộng, liếp vườn. Nên ngay khi chúng ta nghe Chúa Giêsu kêu gọi: "Hãy mang lấy ách của Ta, ... vì ách của Ta thì êm ái, còn gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Đã là ách thì làm sao mà êm ái, đã là gánh thì làm sao mà có thể nhẹ nhàng được. Kinh nghiệm trong thực tế cuộc sống không dễ cho con người chúng ta cảm nhận được lời nầy của Chúa Kitô.

Theo truyền thống Do thái, lề luật được xem như là một cái ách đè nặng trên dân chúng mà họ không thể thoát ra được. Thiết tưởng chúng ta cũng nên biết, Lề Luật của Thiên Chúa ban cho dân Do thái là vì tình thương họ, hướng dẫn họ sống đẹp lòng Chúa. Nhưng qua dòng lịch sử, người ta đã thêm vào đó những giải thích theo ý con người làm cho lề luật trở thành một gánh nặng mà người theo đạo khó gánh vác nổi. Như thế ách là một cái gì đang đè nặng là cho phải nặng nhọc hơn cho những ai phải vác lấy nó.

Tuy nhiên chúng ta cũng nên biết rằng cái ách không chỉ là một cái gì đè nặng mà còn là cái gì đó để liên kết và chia sẻ. Hai con trâu, hai con bò cần có cái ách để nó chia sẻ nỗi khổ nhọc. Trong chiều hướng này chúng ta sẽ thấy và hiểu rõ hơn câu nói của Chúa Giêsu : "Hãy mang lấy ách của Ta, ... vì ách của Ta thì êm ái, còn gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải vất vả gánh nặng thêm mà Ngài muốn chúng ta hãy để cho Ngài cùng chung vai sát cánh với chúng ta, chia sẻ nỗi vất vả của chúng ta. Lời Chúa dạy là những giới răn mới không phải để trói buộc con người trong sự nô lệ của tội lỗi, của lề luật mà là nô lệ trong tình yêu Thiên Chúa, mà nô lệ trong tình yêu thì chính là sống và chết cho tình yêu Thiên Chúa để đáp lại tình Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta. Vậy ách của Chúa quả là nhẹ nhàng thực sự vì nó mang lại cho ta sự tự do thực sự, tự do trong tinh thần nghĩa tử. Mang lấy ách của Chúa là để Chúa nâng đỡ bổ sức cho chúng ta.

Trong cuộc sống con người ai ai cũng sẽ gặp những khốn khó vất vả trong cuộc sống. Vì thế, người ta thường ví đời là bể khổ, đời là vũng nước mắt.... Nhưng làm sao có thể vượt qua những vất vả này. Thưa là hãy cùng Chúa vượt qua và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài là vua hoà bình, vua bình an. Ngài sẽ quét sạch mọi đau thương khốn khó, Ngài sẽ làm khô những giọt lệ trên khoé mắt chúng ta.

Muốn được như thế mỗi người chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để Chúa cùng hành động với Chúa, chẳng những Chúa bằng lòng mà lại vui lòng nữa khi ta biết để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta cảm nhận được sức mạnh của Chúa trong cuộc sống để chúng ta biết phó thác cho Chúa cuộc đời chúng ta, để Chúa hướng dẫn chúng ta và để Chúa hoàn thành tất cả những gì là đẹp lòng Chúa.

HÃY MANG LẤY "ÁCH" VÀ "GÁNH" CỦA ĐỨC GIÊSU
Mt 11, 25 - 30

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong cuộc sống hiện nay, khoa học phát triển, con người được nhàn nhã hơn. Nhận định đó không sai. Tuy nhiên, nó chỉ đúng với những gì là thực dụng, hay đúng trong lãnh vực khoa học, còn trong lãnh vực tinh thần thì vẫn còn đó những buồn sầu, lo lắng; vẫn còn đó những đau khổ tinh thần; và vẫn còn đó những điều bất bình an khi con người có nhiều thứ phục vụ cho thân xác và chất lượng hiện sinh của cuộc sống. Câu hỏi được đặt ra là: làm sao cho cuộc sống này được hạnh phúc và bình an thực sự?

1.      Những gánh nặng cuộc đời

Trước khi nói đến sự bình an, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những gánh nặng của con người trong cuộc sống hiện nay.

Những gánh nặng đó là:

Gánh nặng của những quá khứ với biết bao nhiêu điều chưa làm được;

Gánh nặng của hiện tại với biết bao bất công;

Gánh nặng của ham muốn, tham lam mà không đạt được;

Gánh nặng của những nghi ngờ, bon chen, hà tiện, ganh tỵ;

Gánh nặng của những khát vọng thống lĩnh xã hội bằng chiến tranh;

Gánh nặng của những người bị áp bức bạo tàn;

Gánh nặng của những kỳ thị chủng tộc và loại trừ;

Gánh nặng khi mang trên mình những căn bệnh nguy hiểm của thế kỷ;

Gánh nặng của những thất vọng, lo âu;

Khi mang trên mình những gánh nặng về thể lý hay tinh thần như thế, con người cần phải được nghỉ ngơi, bồi dưỡng để đem lại bình an. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta mang lấy "ách""gánh" của Đức Giêsu, và hãy học cùng Đức Giêsu, vì Ngài "hiền hậu""khiêm nhường" trong lòng.

2.      Ý nghĩa sự "hiền hậu" và "khiêm nhường" theo tinh thần Tin Mừng

Khi nói đến sự"hiền hậu", người ta nghĩ ngay đến những đặc tính của nó như: dịu dàng, nhẹ nhàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi, cộc cằn...; "hiền hậu" còn có nghĩa là êm ái, hòa nhã, yêu thương, nhân hậu, thông cảm, tôn trọng và khoan dung; luôn nghĩ tốt và hành động tốt cho người khác. Sẵn sàng đối thoại, không đối đầu và chấp nhận sửa sai.

Còn khi nói đến sự "khiêm tốn", chúng ta sẵn sàng xuống thấp, ở dưới hay chấp nhận bị hạ xuống, biết sự giới hạn của mình để sống khiêm tốn, sống thật với bản chất, khả năng của mình, không thêu dệt quá những gì mình có.

3.      Hãy học với Đức Giêsu vì Ngài "hiền hậu" và "khiêm nhường"

Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ hãy mang lấy "ách""gánh" của Ngài, bởi vì Ngài có lòng "hiền hậu""khiêm nhường" trong lòng.

Thật vậy, hễ mang "ách" của ai là học với người đó; còn mang "gánh" của ai thì được mời gọi giữ những điều luật của người đó đang giữ hay điều luật của chính người đó ban hành. Đức Giêsu mời gọi mang lấy "ách" "gánh" của Mình, Ngài muốn chúng taphải sống"hiền hậu", "khiêm nhường", "êm ái", "nhẹ nhàng" và giữ "luật yêu thương".

Khi mang lấy "ách" và "gánh" của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được hạnh phúc và bình an, vì "ách" của Đức Giêsu thì êm ái và "gánh " của Ngài thì nhẹ nhàng. Đến với và mang lấy tinh thần của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì có ơn Chúa phù trợ, chở che. Khi ấy, tinh thần của chúng ta sẽ hạnh phúc và an vui, dẫu có gặp phải những điều khó khăn, thử thách.

Khi mang trong mình những "ách""gánh" của Đức Giêsu, ấy là lúc chúng ta đang sống trong quỹ đạo của tình yêu và làm cho tình yêu đó được lên ngôi chứ không phải nhu nhược, nhát đảm, hèn hạ, mù quáng, hay lầm lạc...

Lạy Chúa, xin cho chúng con được kiên trì trung thành mang lấy "ách" và "gánh" của Chúa để chúng con được bình an. Amen.

ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Mt 11, 25 - 30

1. LỜI CHÚA: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mt 11,28-30).

2. CÂU CHUYỆN:

1) GƯƠNG NHẪN NHỊN CHỊU ĐỰNG THA NHÂN:

LẠN TƯƠNG NHƯ được phong làm tướng quốc nước Triệu. LIÊM PHA cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị vua Triệu xếp đứng bên dưới, nên cảm thấy bực tức và hăm hễ gặp mặt Tương Như là sẽ giết. Tương Như vì thế cứ phải lánh mặt... Một hôm Tương Như có việc phải ra ngoài, gặp phải toán lính tiền đạo của Liêm Pha từ xa đi tới, liền sai mấy người đánh xe tránh vào trong ngõ, đợi cho kiệu của Liêm Pha đi qua rồi mới ra đường. Bọn xa nhân của Tương Như thấy thế rất căm giận thay cho chủ và họp nhau lại chất vấn Tương Như rằng:

- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây để hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng quan nhất phẩm mà hạng thứ của ngài còn ở trên ông ta. Liêm Pha dọa, ngài đã không đáp nên tránh mặt ở triều đình. Nay lại còn tránh cả ở ngoài đường nữa ! Sao ngài lại tỏ ra nhát sợ ông ta quá như vậy ? Chúng tôi là bề tôi cảm thấy xấu hổ, nên xin phép từ giã ngài, không tiếp tục theo ngài nữa.

Tương Như liền nói :

- Các ngươi xem tướng quân ta có hơn vua nước Tần không ?

Bọn xa nhân đáp :

- Thưa không.

Tương Như lại nói :

- Trước cái oai của vua nước Tần, thiên hạ nào ai dám ra mặt chống, mà Tương Như này dám mắng ông ta ngay giữa triều đình nước Tần, lại làm nhục cả quần thần của vua Tần nữa.  Tương Như ta dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao ? Nhưng ta nghĩ sở dĩ nước Tần hiện nay không dám tiến đánh nước Triệu chúng ta là vì e sợ có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đấu nhau, thề không sống chung với nhau. Nếu nước Tần nghe tin được, tất sẽ thừa cơ mang quân sang đánh nước Triệu ta thì sao ? Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì lấy việc nước là trọng và coi thù riêng là khinh vậy thôi.

Bọn xa nhân liền quỳ mọp bái lạy Tương Như mà rằng :

- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

Về phần Liêm Pha, khi nghe thuật lại lối ứng xử của Tương Như thì cả thẹn mà rằng : "Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm". Rồi Liêm Pha còn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng : "Tôi tính tình thô bạo, đội ơn tướng quân đã bỏ qua, tự nghĩ lấy làm hổ thẹn quá !". Tương Như đến đỡ dậy, và sau đó cả hai kết làm bạn thân thiết sống chết có nhau.

 (Cái DŨNG của thánh nhân- Nguyễn duy Cần)

2) TÂM HỒN BÌNH AN NHỜ TIN VÀO CHÚA:

TOM là một tân tòng người da đen. Anh có lòng tin Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Nhưng anh bạn thân của anh tên là GION thì lại không tin Chúa. Khi gặp Tom, anh ta thường khích bác đức tin của Tom và coi Tom là một kẻ mê tín. Một hôm Tom đang vác một bao khoai mì khá nặng từ cánh đồng trở về nhà, thì gặp Gion đang ngồi chờ bên vệ đường. Thấy Tom vác nặng mồ hôi chảy ra nhễ nhãi, Gion liền lên tiếng diễu cợt: "Này Tom, anh tin Chúa mà sao Chúa lại để anh vất vả quá như thế ?" Tom không trả lời và tiếp tục bước đi. Được thể, Gion lẽo đẽo theo sau và tiếp tục nói những lời khích bác về đạo. Đi được một quãng, Tom đã cố ý buông tay cho bao khoai sau lưng anh rơi xuống đất. Sau đó anh quay lại nhặt lên và nói với Gion: "Tôi cũng xin hỏi anh: "Làm sao tôi biết được bao khoai sau lưng mình bị rơi, khi mắt tôi không thấy nó rơi ?". Gion liền đáp: "Đương nhiên là anh phải biết nó rơi rồi, vì anh cảm thấy gánh nặng trên vai anh biến mất ?" Bấy giờ Tom liền giải thích cho Gion hiểu lý do theo đạo của mình như sau: "Tôi đồng ý với anh là bao khoai tôi đang vác mà bị rơi xuống thì đương nhiên tôi phải biết, vì tôi thấy gánh nặng trên vai đột nhiên biến mất và tôi thấy nhẹ mình. Về đức tin cũng vậy: Trước đây, tôi luôn cảm thấy buồn rầu lo lắng về những tội lỗi trong quá khứ, và không lúc nào tâm hồn tôi được bình an. Nhưng từ ngày theo đạo, tôi đã gặp được Chúa Giê-su. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi được nghe Lời Chúa an ủi và lời giảng của vị linh mục giúp tôi hiểu thêm về lòng thương xót của Chúa, về ý nghĩa những đau khổ tôi gặp phải và về giá trị công việc lao động tôi đang làm... Khi đến nhà thờ, tôi cảm thấy bao nhiêu gánh nặng lo âu phiền muộn đều biến mất. Hiện nay tôi cảm thấy tâm hồn thật bình an hạnh phúc. Mặc dù vẫn phải làm việc để kiếm sống, vẫn gặp phải những điều rủi ro tai nạn trái với ý muốn, nhưng tôi luôn an tâm và sẵn sàng chấp nhận chúng giống như tôi đang vác cây thập giá mình mà theo chân Chúa vậy. Chính đức tin đã giúp tôi nhận ra Chúa Giê-su sống trong tôi và tôi cảm thấy rất vui khi có Chúa đồng hành, cùng chia sẻ vui buồn với tôi. Đó chính là lý do khiến tôi theo đạo và tôi thề quyết trung thành theo Chúa đến cùng".

Tom đã cảm nghiệm được lời Đức Giê-su hôm nay: "Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng... Và tâm hồn anh em sẽ được bình an" (Mt 11,28-29).

3. SUY NIỆM:

1) THẾ NÀO LÀ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG ?:

- Hiền hậu hay hiền lành là thái độ của một người tốt lành, giàu lòng từ bi nhân ái, có lòng thương xót và thích làm điều tốt cho kẻ khác. Hiền hậu theo Kinh Thánh còn có nghĩa là thái độ hiền dịu, không cứng cỏi... Như vậy hiền hậu vừa có bên trong lại vừa phát xuất bên ngoài. Trong lòng thì từ bi, khoan dung, độ lượng, cảm thông. Bên ngoài thì nhẹ nhàng, từ tốn nhỏ nhẹ, không thô bạo, không gây thù chuốc oán với ai...

- Trong đời sống thường ngày, những người có quyền thường đi đôi với tính tự cao tự đại, không muốn ai làm trái ý của mình nên nét mặt thường cau có, hay la mắng người dưới làm trái ý mình, có khi còn "giận cá chém thớt" nữa.  Trong thực tế, một vài câu nói thường hay được nhiều người nhắc lại như: "No mất ngon, giận mất khôn", và "Nóng tính hỏng việc".

- Khiêm nhường là thái độ nhún nhường không thích khoe khoang thành tích, luôn sẵn sàng hạ mình một chút.  Căn bản của khiêm nhường là tôn trọng sự thật về mình: nhận thức đúng mình là người xấu tốt như thế nào để không muốn nổi trội hơn người khác. Giả như người khác có coi thương mình thì cũng không tức giận trả thù. Nhờ "biết mình biết người" như vậy nên người khiêm nhường sẽ luôn thành công trong mọi việc., sẽ không cảm thấy quá buồn phiền chán nản khi sự thể xảy ra không như ý của mình. Người khiêm nhường dễ gây được thiện cảm với người khác và nhận được sự hợp tác của nhiều người.  

2) HÃY HỌC VỚI TÔI SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG TRONG LÒNG:

- Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy học tập với Người về "lòng hiền hậu và khiêm nhường". Để tâm hồn chúng ta sẽ được hưởng sự bình an thư thái. Cần loại bỏ thái độ tự mãn về sự khôn ngoan thông thái của mình, để mặc lấy cách suy nghĩ đơn sơ trung thực của trẻ thơ. Bấy giờ chúng ta sẽ được Đức Giê-su mặc khải những mầu nhiệm của Thiên Chúa (x. Mt 11,25-27). Thánh Au-gút-ti-nô nói: "Ở đâu có khiêm nhường, ở đó có bác ái".

- Văn hào Nga TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện ngụ ngôn cho thấy sự hiền lành là nguyên nhân của niềm vui và hạnh phúc như sau: Một hôm sói hỏi sóc nâu: "Tại sao họ sóc nhà mi luôn vui vẻ nhảy nhót, còn bọn sói chúng ta lại luôn ủ rũ buồn rầu vậy?" Sóc liền trả lời rằng: "Ông buồn rầu vì trong lòng ông chứa đầy sự độc ác. Chính sự độc ác ấy đã bóp nghẹt trái tim ông, không cho ông được an bình hạnh phúc. Còn sở dĩ lũ sóc chúng tôi luôn vui vẻ vì chúng tôi hiền lành, không làm hại ai cả".

- Một câu chuyện khác về một con nhái bén kiêu căng: Ngày nọ một con nhái bến kiêu căng lên tiếng thách đấu với một con bò mộng. Nhái ta cố phình bụng sao cho to hơn bụng con bò. Nhưng to đâu không thấy, chỉ thấy con nhái bén kiêu căng kia đã bị nổ bụng chết thảm. Câu chuyện nhái bén này dạy loài người chúng ta bài học như sau: "Đừng trèo cao để khỏi bị té đau", đừng "xưng hùng xưng bá" khi không có thực tài: "Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần". Người xưa cũng có câu: "Cao nhân tất hữu cao nhân trị" (Một người tài giỏi chắc sẽ có người khác tài giỏi hơn đánh bại mình).

3) ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG: Trong cuộc sống, mỗi tín hữu chúng ta hãy quyết tâm ứng xử hiền lành khiêm nhường cụ thể như sau:

a) Nhẫn nhịn chịu đựng: Kềm chế cơn giận khi bị kẻ khác khinh thường chơi xấu noi gương Đức Giê-su đã không trừng phạt dân làng Sa-ma-ri không tiếp đón Người và các môn đệ vào ở trọ trong làng của họ. Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an đã tỏ thái độ tức giận và thưa với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không? " Nhưng Người quay lại quở mắng các ông: "Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để  cứu mạng". Rồi thầy trò đi sang làng khác (x. Lc 9,53-56).

b) Không khoa trương công đức trước mặt người đời để tìm tiếng khen (x. Mt 6,1-4). Tránh tình trạng "thùng rỗng kêu to"; "Làm láo báo cáo hay". Bệnh thành tích làm cho người ta dễ che đậy cái xấu và gian dối phóng đại điều tốt để được khen thưởng.

c) Sẵn sàng tha thứ vô điều kiện: Đức Giê-su đã dạy: "Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (x. Mt 5,43-45). Trong kinh Lạy Cha Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện: "Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con" (Mt 6,12).

d) Cần sớm hòa giải với tha nhân trước khi dâng của lễ: "Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lài đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5,23-24).

e) Sắn sàng phục vụ hơn là được phục vụ (x. Mt 20,28): Đức Giê-su đã rửa chân cho môn đệ trước khi dạy các ông bài học khiêm nhường (x. Ga 13,14);

g) Yêu kẻ thù và làm ơn cho những kẻ thù ghét bách hại mình (x. Mt 5,39-42): Trên thập giá, Đức Giê-su im lặng chịu đựng sự sỉ nhục và xin Chúa Cha tha cho những kẻ hành hạ mình (x. Lc 23,34)...

4) PHÚC THAY AI XÂY DỰNG HÒA BÌNH: Trong bài giảng "Tám mối phúc thật" , Đức Giê-su đã khẳng định: Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp". "Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,4.10).  Sự hiền lành sẽ làm cho chúng ta được vào Nước Trời của Đức Giê-su và nếu biết xây dựng hòa bình trong môi trường sống và làm việc của mình, chúng ta sẽ xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.

Tuy nhiên, sự hiền lành nơi Đức Giê-su không phải là nhu nhược thụ động, không đồng nghĩa với ba phải và bất nhất ... nhưng luôn ăn ở công minh chính trực, từ bi nhân ái, thể hiện qua thái độ ứng xử với tha nhân như sau:

a) Tránh xét đoán ý trái cho kẻ khác: và luôn tỏ lòng nhân từ với các tội nhân noi gương Đức Giê-su xưa đã nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình rằng: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !" (Ga 8,11b).

b) Hiền lành nhưng cương quyết: Không thỏa hiệp với cái xấu như Người đã trách Phê-rô khi ông can trách Người đừng đi con đường qua đau khổ vào vinh quang như sau: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16,23). Đức Giê-su quát mắng ma quỷ: "Xa-tan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi" (Mt 4,10).

c) Nặng lời khiển trách bọn đạo đức giả: "Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào" ... " Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các ngươi trốn đâu cho khỏi hình phạt hỏa ngục?" (Mt 23,13.33).

d) Dùng biện pháp mạnh khi cần: Người dùng dây thừng làm roi đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Rồi Người bảo họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp" (Mt 21,12-13).

e) Lý phải nhân tâm phục: Đức Giê-su đã hạch lại kẻ đã vả mặt Người như sau: "Nếu tôi nói sai, hãy chứng minh xem sai chỗ nào. Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?" (Ga 18,22-24).

TÓM LẠI: Tất cả những điều tốt đẹp nói trên của Đức Giê-su đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong KINH HÒA BÌNH. Nếu mỗi tín hữu chúng ta biết năng đọc và áp dụng thực hành theo các nguyên tắc ứng xử trong Kinh Hòa Bình này thì chúng ta sẽ nên giống Đức Giê-su và sẽ tích cực góp phần trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

    4. THẢO LUẬN:

1) Sự hiền lành giống và khác với sự nhu nhược và ba phải thế nào ?

2) Có người nghĩ rằng: không thể áp dụng lời Đức Giê-su dạy: "Đừng chống cự người ác" (Mt 5,39), vì kẻ ác sẽ "được đàng chân, lân đàng đầu". Bạn có đồng ý với quan điểm ấy hay không ? Tại sao ?

3) Bạn cần làm gì cụ thể để trở nên hiền lành và khiêm nhường noi gương Đức Giê-su ?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA. Xin cho chúng con quyết tâm học tập theo Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng, noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời, có thể nói được như mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther Kinh) rằng: "Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời, ai đó sẽ kể lại rằng: Mác-tin Lu-thơ Kinh là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ nói rằng tôi đã sống cho công lý, tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, tôi đã luôn cho kẻ đói rách được ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói rằng tôi đã dấn thân đến thăm những người tù tội, và yêu thương phục vụ hết mọi người như lời Chúa dạy... Còn tất cả những thứ khác, như giàu có, danh dự, giải No-ben hòa bình ... đều không đáng kể".

LẠY CHÚA. Chúng con đã được Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã phú ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương. Xin cho chúng con luôn tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời con. Xin cho con biết ăn ở khiêm nhường và phục vụ Chúa trong những người cô đơn nghèo khổ và bệnh tật yếu đuối đang sống bên cạnh chúng con".

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.  - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH -  HHTM

MANG ÁCH CỦA CHÚA, SẼ GẶP ĐƯỢC BÌNH AN.
Mt 11, 25 - 30
LM. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc sống đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng trong khi những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Lời mời gọi của Đức Giêsu "hãy đến với Ta" thật ý nghĩa và đầy nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Đến với Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì ách của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ.

Lời Chúa Giêsu thân thưa với Cha Người : "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" (Mt 11, 25). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả "sự bổ sức", nhưng đặt một điều kiện, đó là: " Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng" (Mt 11, 29). Cái "ách đó" là gì, mà thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên ? " Ách của Chúa Giêsu là luật của tình yêu thương, là giới răn mà Người đã để lại cho các môn đệ Người (x. Ga 13, 34; 15, 12).

Nói đến cái "ách", luật Dothái được xem như đặc quyền của họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của Thiên Chúa thể hiện trong sống hàng ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Chúa Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho con người. Người mời gọi : "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng " hãy đến với Người, hãy tin vào Người, " Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho " (Mt 11, 28).

Ách, với mục đích là giúp con vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta mang ách của Chúa Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng. Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng ta. Chúa Giêsu mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người cộng tác với nhau kéo chung một cái ách, chắc chắn hơn một khỏe mạnh. Đó chính là điều Chúa Giêsu làm cho mỗi người trong chúng ta.

Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay Người lại trao thêm ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Ách của Người không phải là gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng (x. Mt 11, 30). Thánh Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một người "cùng mang ách" với chúng ta.

Ở đoạn trước trong Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai "có tinh thần nghèo khó" (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến "những kẻ bé mọn" (Mt 11, 25) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa Kinh Thánh, họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang, chẳng có gì để có thể khoe khoang. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.

Tiên tri Dacaria nói đến Vị vua Mêssia lên Giêrusalem cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ, nhắc lại rằng Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu dàng, Người đã mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã cúi xuống đất để nghe tiếng van nài, Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết.

Chúa Giêsu đề nghị chúng ta mang lấy ách của sự khiêm nhường và hiền hầu, của niềm tin vào tình thương Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người cứu giúp : " Trẻ trung thì mệt, thì mỏi, tráng đinh nghiêng ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt " (Is 40, 30-31). Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta đón nhận vào lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều thuốc bổ sức như lời Người hứa ; và giảm bớt gánh nặng đè trên chúng ta, vì có Chúa vác đỡ chúng ta.

Có người viện cớ hỏi : Vậy tại sao Thiên Chúa không cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một lần cho tất cả các gánh nặng ? Thưa là vì Ngài không muốn cứu chúng ta mà không có chúng ta. Thiên Chúa dành cho chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy.

Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn nghĩa là những người không cậy dựa và sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào Chúa, những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con đã được mạc khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì được.

Niềm vui cả thể của con người là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như người con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời.

Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con " học" nơi Chúa Giêsu sự khiêm nhường thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội tâm, và giúp chúng con an ủi các anh chi em khác đang mệt nhọc bước đi trên con đường cuộc sống. Amen.

DIỆU HIỀN
Mt 11, 25 - 30
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyện kể: Thánh Jean Vianney, lúc còn là chủng sinh học hành rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức giám mục, đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Vianney không thể trả lời xuông sẻ câu hỏi nào cả. Vị giáo sư nổi nóng đập bàn nói: Vianney, anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì? Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: Thưa Thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương con lừa mà đánh bại 3 ngàn quân Philistin. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?

Sách tiên tri Giacaria được xếp vào áp cuối của bộ sách Cựu Ước. Giacaria sinh sống tại Giêrusalem và thi hành sứ vụ tiên tri vào khoảng năm 520-518 trước Công nguyên. Với việc lên ngôi của Zerubbabel, dòng dõi vua Đavid, Thiên Chúa khai mở triều đại mới trong vinh quang và sang giầu cho Giêrusalem. Thiên Chúa muốn Zerubbabel và Joshua xây dựng lại Đền Thờ và lập lại hàng giáo sĩ giữ việc thờ phượng và dâng hương tại đó. Giacaria cũng là một trong những người Do-thái bị lưu đầy được trở về Giêrusalem. Ông cùng được dự phần trong nhóm các tiên tri Do-thái. Ông phấn chấn lòng dân về tin mừng của Đấng cứu độ: Đây Chúa phán: Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng: Nầy vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con của lừa mẹ (Zach 9, 9). Tiên báo về Đấng công chính ngồi trên lưng lừa con bước vào thành thánh Giêrusalem với lời tung hô vạn tuế. Con cái Sion tung hô nhảy mừng ca hát: Vạn tuế, tung hô Đấng nhân danh Chúa mà đến.

Người đời hãnh diện với danh vọng và quyền lực để cai trị nhân dân. Có nhiều người tự cao tự đại làm như họ sở hữu mọi gia sản trên đời. Sự khôn ngoan, tài trí, sức mạnh và cả sự sống đều là ân huệ được trao ban. Mỗi người có khả năng để phát triển tất cả kho tàng qúi báu được ẩn dấu và phú bẩm. Không có sự gì chúng ta sở hữu mà không do ơn trên ban cho. Cho dù có thông giỏi, quyền thế và uy lực, con người cũng không thể hiểu thấu chính mình và vũ trụ chung quanh. Chúa Giêsu Đấng trung gian vạn vật đã lên tiếng nói rằng: Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã dấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn (Mt 11, 25). Thiên Chúa mạc khải nước trời cho những tâm hồn đơn sơ và chân thành. Không phải cứ thông minh hiền triết là nắm giữ được chìa khóa của sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan gắn liền với sự đơn sơ khiêm tốn.

Sau khi chịu chức linh mục, cha Jean Vianney vì nổi tiếng nhân đức, giáo dân các giáo họ lân cận tuôn đến tham dự thánh lễ, nghe giảng và xưng tội. Một cha sở kia tức giận vì tín hữu bỏ mình đến với cha Vianney. Ông cha này đã viết thơ nhục mạ cha Vianney. Cha Vianney nhận thơ, vội tìm tới xin cha sở kia tha lỗi và khẩn khoản xin cha sở kia giúp trình Đức giám mục đổi Vianney đi vùng khác hay tốt hơn cho nhập dòng nào đó để khỏi làm phiền các cha lân cận. Trước thái độ khiêm hạ đó, cha sở kia quì mọp xuống xin lỗi và từ đó chọn cha Vianney là cha linh hướng.

Hãy tìm học với Chúa Kitô: Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an (Mt 11, 29). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa toàn năng toàn mỹ. Chúa cư ngụ giữa xã hội con người đầy tội lỗi, yếu đuối và mỏng dòn. Dù tình trạng con người xấu xa đến mức nào đi nữa, Chúa vẫn yêu thương, chữa lành và cứu độ. Chúa không loại trừ sự dơ dáy tanh hôi của bệnh tật và tội lỗi. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại phải đối đầu với sự tà tâm của con người. Chúa đã nhiều lần tranh luận, thuyết phục, răn dậy, sửa sai, hướng dẫn và dậy dỗ cả các Thượng tế, Tư tế, Biệt Phái, Luật sĩ, các Đầu mục các phái, các vị lãnh đạo và toàn dân. Với lòng thương xót tuyệt đối, ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào từng tâm hồn. Chúa muốn chúng ta hãy học nơi Chúa sự dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng.

Trong khi loài người, gọi là đồng loại, thì phân biệt và cách biệt. Phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống, mầu da, sắc tộc, giầu nghèo, học thức, chức vị và muôn ngàn cách thế dị biệt. Hình như nhiều người luôn tìm cách đánh giá sự hơn thua và vinh nhục ở đời như là cùng đích. Dân tộc nào cũng muốn trội hơn. Người nào cũng muốn khoe tài, khoe của. Đâu mấy ai khoe sự khó nghèo, khiêm nhường hay hiền lành. Nếu cứ mải mê chạy đua tìm kiếm những triều thiên giả tạo, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong vòng xoáy tục lụy trần đời. Biết rằng, sống là phải vươn lên và phấn đấu không ngừng. Cho dù đứng trong bất cứ địa vị nào trong xã hội, chúng ta cũng chỉ là một con người đầy khuyết điểm và yếu đuối. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đấng kế vị thánh Phêrô, đã tiếp nhận được bài học qúi giá của sự dịu hiền và khiêm hạ. Từng việc cụ thể ngài thực hiện trong những ngày tháng qua đã làm nổi bật sứ vụ của đấng thay mặt Chúa. Đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ.

Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt đối cho mọi người trong mọi thời. Là môn đệ của Chúa, chúng ta cần suy tư sâu lắng tất cả những lời chỉ dậy và hành động gương sáng của Chúa. Chúa giảng về sự tha thứ, thương xót, bác ái, khó nghèo, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng, hy sinh và ngay cả chết cho bạn hữu. Chúa đã giảng và đã thực hành. Trong khi chúng ta thích khoe mẽ, nói nhiều mà chẳng muốn áp dụng. Lời nói chẳng đi đôi với việc làm, đôi khi còn ngược lại, nói một đường, làm một nẻo. Khuyên dậy, giảng giải, trình bầy và thuyết phục điều hay lẽ phải thì ai cũng có thể làm được, nhưng thực hành những điều này cần có một ý chí và quyết tâm cao. Thực hành sống đạo cũng thế, chúng ta cần có thái độ chọn lựa dứt khoát bước theo lề phải. Tu thân tích đức từng bước mỗi ngày. Các thói quen tốt lành sẽ trở thành các nhân đức. Nhân đức dẫn chúng ta tiến gần trên con đường trọn lành.

Thánh Phaolô khuyên dậy: Vì chưng, nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống (Rm 8, 13). Thân xác con người vốn có bản năng yếu đuối. Các cơn cám dỗ luôn rình rập kéo lôi chúng ta trở lại tình trạng man rợ xa Chúa. Nhờ thần trí hướng dẫn, chúng ta có thể thắng vượt những cạm bẫy giăng mắc quanh môi trường cuộc sống. Xác thịt thì nặng nề yếu đuối nhưng thần trí cần phải dũng mạnh và cương trực. Thân xác là máng chuyển các ơn huệ vào tâm hồn. Chúng ta cần bồi dưỡng sức mạnh cho cả xác lẫn hồn để có hồn trong, xác mạnh. Sứ mệnh và cùng đích của toàn diện cuộc sống con người là sự sống viên mãn ngày sau.

Lạy Chúa, dòng nước sẽ tuôn chảy về chỗ thấp trũng. Ơn sủng của Chúa cũng tuôn đổ vào những tâm hồn biết khiêm nhượng đón nhận. Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân của Chúa.

THIÊN CHÚA KHIÊM HẠ
Mt 11, 25 - 30
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Khiêm hạ là đức tính tối cần để thành công trong cuộc đời. Người tài giỏi mấy mà tự kiêu, tự mãn vẫn không được người khác tôn trọng. Đứng trước sự linh thiêng đặc biệt trước các vị thần, vị thánh, con người nhất nhất phải khiêm tốn cúi đầu. Đạo Công Giáo do Chúa thiết lập lại mang một sắc thái khác lạ bởi vì Con Thiên Chúa đã tự hạ mình mang kiếp người phàm để sống cùng, sống với, sống cho con người, nói một cách thiêng liêng, Con Thiên Chúa hạ mình trước dân của Ngài.

Cuộc lữ hành trần thế tiến về Quê trời, người Kitô hữu phải phấn đấu, hy sinh, từ bỏ, phải vất vả truân chuyên vượt qua biết bao gian nao thử thách để bảo toàn đức tin. Chúa Giêsu hiểu rõ những vất vả nặng nề của người Kitô hữu, Ngài đã động viên, khích lệ, kêu gọi: " Tất cả những ai đang vất vả nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng " ( Mt 11, 28 ).

Vâng, Chúa Giêsu mời gọi tất cả những ai đang phải lao đao vất vả, những kẻ hèn mọn, những người không nhà không cửa, những kẻ thấp cổ bé họng, những kẻ neo đơn, cơ nhỡ, những người vất vưởng khắp nơi, hãy đến với Ngài để Ngài an ủi, chở che, nâng đỡ và cho nghỉ ngơi lại sức. Hãy đến với Ngài tất cả những ai tội lỗi, chán nản, u buồn, Ngài sẽ xoa dịu vỗ về, an ủi và Ngài sẽ ban cho họ sự an bình.

Chúa Giêsu còn thiết tha mời gọi con người: " Anh em hãy mang lấy ách của tôi...Vì ách của tôi êm ái, và gánh của tôi nhẹ nhàng ( Mt 11, 29-30 ). Ở đây chúng ta phải hiểu " ách " là một cái cây bằng gỗ nặng, nó được thiết kế, đóng để đặt lên cổ của đôi bò, để giữ chúng lại và để chúng kéo xe. Trong cuộc đời 30 năm ở Nagiarét có lẽ Chúa Giêsu đã thấy thánh Giuse và nhiều người dân làng đã đóng những cái ách như thế để ghìm bò và giữ bò để chúng kéo xe. Qua cái ách bò, Chúa Giêsu đã muốn dạy cho nhân loại biết rằng tôn giáo do Ngài thiết lập sẽ không phải là thứ tôn giáo đè cỏ đè đầu nhân dân. Do đó, Chúa Giêsu đã nói: " Ách của tôi thì êm ái và gánh của tôi thì nhẹ nhàng ".

Chúa Giêsu đã minh chứng sự khiêm hạ của Ngài như chúng ta đọc thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philip chương 2, và đặc biệt khi Chúa rửa chân cho các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly và cái chết của Ngài trên thập giá để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại, cho con người. Sự khiêm hạ của Chúa chúng ta không bao giờ nghĩ tới được bởi vì nếu Chúa không mặc khải sự khiêm hạ của người qua những hành động cụ thể thì không bao giờ chúng ta hiểu được Ngài. Ngài đã tự hạ qua tình yêu vô biên, tình yêu hoàn toàn vô vị lợi của Ngài: " Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ) hoặc " Khi nào Ta bị đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta ".

Thánh lễ tái diễn lại việc Chúa Giêsu khi xưa trên thập giá. Nên, mỗi khi chúng ta lên rước Chúa, Linh mục sẽ giới thiệu với chúng ta Mình và Máu Thánh của Chúa, làm của nuôi thần linh nuôi sống con người chúng ta.. Chúng ta đến với Chúa Giêsu vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Chúng ta đến với Chúa, Chúa sẽ bổ dưỡng và ban cho chúng ta thanh thản bình an, đúng như lời Ngài đã nói: " ách của tôi thì êm ái và gánh của tôi thì nhẹ nhàng ".

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn học nơi Chúa sự khiêm hạ của Chúa. Amen.

HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Mt 11, 25 - 30
Lm. Phêrô Nguyễn Hương

Lời Chúa hôm nay thật là phong phú, mỗi câu là một đề tài đáng suy nghĩ. Chúng ta chỉ tập trung suy niệm một câu thôi: "Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng" (Mt 11,29).

Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính căn bản và nền tảng mà mỗi người chúng ta phải có để làm người.

1. Người hiền lành (meek)

Vậy người hiền lành là ai? Trước hết người hiền lành là người có đức độ, lương thiện (good); có lòng thương người (helpful); người tỏ ra kiên nhẫn (patient), dễ tùng phục (submissive), tử tế và hòa nhã với người khác (kind). Người ở hiền thì sẽ có hậu: "Ở hiền gặp lành", "Cha mẹ hiền lành thì để đức cho con" (ngạn ngữ Việt nam).

Trái nghịch với hiền lành là người độc ác, ích kỷ, nóng tính (nóng tính thì hỏng việc!); người thích mệnh lệnh, ưa "ăn trên ngồi trốc"; người "giận cá bằm thớt"; người hay gây lộn "thượng cảng chân hạ cẳng tay!"; người hay "bới lông tìm vết"; người hay nói xiên nói xỏ, nói móc nói me, gây chia rẽ trong gia đình, cộng đoàn, xã hội, vv và vv...!

2. Người khiêm nhường (humble)

Còn người khiêm nhường là ai? Người khiêm nhường là người biết mình, biết người, biết sự vật đúng như nó là; người không khoe khoang, không phô trương, dù có thành công (not proud or arrogant although successful); người biết tôn trọng người khác và nhường - nhận người khác hơn mình.

Ngược với khiêm tốn là người kiêu ngạo: người tự coi mình là hơn người, khoe khang, nói quá sự thật, hay "vơ đũa cả nắm", kiểu "cả vú lấp miệng em!", lúc nào cũng cho mình đúng còn người khác thì sai vv...!

3. Gương khiêm nhường

Đức Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Hãy học cùng Người, hãy học trường Giêsu. Bởi nơi Người, chúng ta gặp một mẫu gương đích thực về sự hiền lành và khiêm nhường: Người là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình mặc lấy thân phận tôi đòi (Phil 2,6), là vị Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Người hiền lành như chiên con bị xén lông mà chẳng mở miệng (Is 53,5-7), và Người đã sống sự khiêm tốn tới tột cùng là cái chết nhục nhã trên thập giá. Nhưng sự hiền lành và khiêm tốn đó lại trở thành dũng lực, là sức mạnh của Tình Yêu và ơn cứu độ cho chúng ta. Người được Thiên Chúa tôn vinh với danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (Phil 2,9). Đúng là "ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên" (Lc 18,14)!

Khi nói về những vị thánh đã học được gương của Chúa Giêsu, ta nhớ tới câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII: Tên thật ngài Roncalli, trước khi làm giáo hoàng, ngài là khâm sứ ở Bungari và Thổ. Trong khi thi hành công vụ, ngài nhận được một bức thư của một linh mục chỉ trích ngài đủ mọi thứ. Ngài đọc thư và không nói gì. Sau đó ngài làm Hồng Y, rồi làm Giáo Hoàng (1958). Về sau vị linh mục đó cùng với giáo dân sang Rôma để yết kiến Đức Giáo Hoàng. Vị linh mục này kể lại buổi yết kiến này: trong khi đứng chờ, đầu óc của ngài cứ nghĩ tới bức thư đó và vừa hối hận vừa lo sợ. Thời gian lâu rồi chắc Đức Thánh Cha đã quên. Không ngờ tới liền, Đức Thánh Cha kéo lá thư trong cuốn sách kinh ra. Cha hoảng sợ, chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi? Nhưng Đức Giáo Hoàng ôn tồn nói: "Con đừng sợ, Cha cám ơn Con. Cha để lá thư trong sách để mỗi ngày đọc và xét mình. Hầu dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại và tránh những lầm lỡ có thể xảy ra trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con".

Các thánh thật hiền lành và khiêm tốn như Chúa Giêsu! Chúng ta chưa giống Chúa vì chúng ta chưa học và sống sự hiền lành và khiêm nhường Người. Nên hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy đến với Người và học nơi Người. Khi chúng ta học được sự hiền lành và khiêm nhường thì lòng chúng ta, gia đình và xã hội sẽ có bình an. Amen!

LÒNG KHIÊM HẠ
Mt 11, 25 - 30
LM Vũ Quốc Thịnh CSsR

Trang tin mừng thật ngắn mà chúng ta vừa nghe để lại một bài học dài, bài học lớn, bài học hay, bài học hết sức ý nghĩa của cuộc đời con người : "Anh em hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường". Bài học này quả là một bài học khó đối với mỗi người chúng ta vì lẽ chúng ta đã "lỡ" mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo, của bất tuân từ ông bà nguyên tổ.

Nhìn một chút lại hình ảnh đẹp của vườn địa đàng ngày xưa chúng ta sẽ thấy chiều chiều gió thổi hiu hiu, Giavê Thiên Chúa cùng đi dạo với ông Ađam và bà Evà trong vườn Địa Đàng. Thiên Chúa yêu thương ông bà bằng một mối tình hết sức nồng thắm. Thiên Chúa chỉ có một điều quy ước với ông bà là đừng ăn cái trây ở cái cây giữa vườn. Thế nhưng, nghe lời xúi giục của con rắn hay nói đúng hơn phát xuất từ chính lòng kiêu ngạo của con người để rồi con người đã đánh mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa và Thiên Chúa đã đuổi khỏi vườn Địa Đàng.

Cái máu kiêu ngạo của ông bà nguyên tổ hình như đã truyền vào máu mỗi người chúng ta để rồi bài học khiêm nhường mà Thiên Chúa dạy cho ông bà ở cái thời xa xưa ấy không hề vô giá trị mà rồi ngày hôm nay, Giêsu - Con Thiên Chúa - đã phải lập lại cái bài học quý báu ấy.

Chúa Giêsu - con Thiên Chúa - đã vâng phục Chúa Cha, vì yêu thương, vì muốn cứu con người khỏi sự hư mất do sự kiêu căng. Thánh Phaolô đã viết nên điều ấy trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip :

"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mëc lấy thân nô lệ
tở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế
Người lại còn hạ mình
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
cết trên cây thập tự,
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt muôn ngàn danh hiệu
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ
muôn vật phải bái quý
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng :
"Đức Giêsu Kitô là Chúa
" (Pl 2,6-11)

Thiên Chúa, là một vị Chúa, vậy mà Ngài đã trút bỏ vinh quang, Ngài trút bỏ địa vị của một vị Thiên Chúa và mặc lấy thân phận của Người tôi trung có sứ mạng cứu chuộc.

Ở vùng biển, người đi mò ngọc trai lặn xuống nước để tìm ngọc quý, có một kinh nghiệm đặc biệt. Anh cố lặn sâu xuống, nhưng nước lại đẩy anh lên. Chúng ta biết định luật Archimède về sức đẩy của nước từ dưới lên. Vật thể càng nặng, khối càng to, thì lượng nước tách ra càng lớn. Vì vậy, sức đẩy lên trên càng mạnh, như thể muốn đưa anh ta lên lại mặt nước. Nhưng anh vẫn cố lặn xuống vì sinh kế. Quả là vất vả. Nhưng anh sẽ vui mừng biết bao khi nhìn thấy hạt ngọc trong vỏ trai dưới đáy biển.

Việc tìm kiếm sự khiêm tốn cũng giống như việc tìm kiếm của người mò ngọc trai. Phải lặn xuống dưới, xuống mãi tới đáy, tới chỗ mà sự thật về con người của chúng ta nằm ở đó. Và cũng có một sức mạnh, mạnh hơn sức nước biển, sức mạnh của kiêu căng, tìm cách đẩy chúng ta trồi lên, đưa chúng ta lên trên chính mình và trên người khác. Thế nhưng hạt ngọc ở dưới đáy, nằm trong vỏ trai của tâm hồn ta, lại quá quý giá, khiến ta không bỏ cuộc, nếu không muốn thất bại.

Phải vượt qua khu vực ảo tưởng cho mình là lớn, để đi tới hữu thể đích thực của ta, con người thật của ta. Vì, như thánh Phanxicô Assisi nói, "con người trước mặt Thiên Chúa như thế nào, thì thực sự là thế ấy, không hơn"

Con người có hai cuộc đời, một cuộc đời thật, một cuộc đời tưởng tượng. Cuộc đời tưởng tượng xây dựng bằng ý kiến của mình hay dư luận của người khác. Chúng ta thường cố làm đẹp và gìn giữ con người tưởng tượng của ta, và làm ngơ với con người thật. Có được một nhân đức hay một công trạng nào, thì tìm hết cách này cách khác làm cho người ta biết đến, càng sớm càng tốt, để được ca ngợi, để trở thành có giá trước mặt người khác. Chúng ta dùng nhân đức hay công trạng đó để làm phong phú cho con người tưởng tượng của ta.

Thế nên, tìm kiếm sự khiêm tốn là tìm kiếm cho chính hữu thể, tìm kiếm sự trung thực. Đây là điều liên hệ đến con người nói chung, chứ không riêng gì cho người kitô hữu. Khiêm tốn là điều có tính cách nhân vi. Những từ la-tinh để chỉ về con người và khiêm tốn phát xuất từ một gốc có nghĩa là đất (humus). Con người được tạo dựng bởi đất, phải biết hạ mình xuống đất. Phải biết khiêm tốn.

Triết gia Nietzsche, người Đức, hăng hái đả kích luân lý kitô giáo, vì luân lý này rao giảng sự khiêm tốn. Ông đã đụng chạm đến một trong những ân huệ đẹp nhất mà luân lý kitô giáo đem đến cho thế giới.

Phần chúng ta, hãy tin tưởng vào người hướng dẫn bảo đảm nhất là lời Chúa. Nhờ quyền năng của Thần Khí, lời Chúa giúp ta trở thành những người mò ngọc trai. Chúng ta không thể và không muốn điều gì khác hơn là tìm viên ngọc quý trong vỏ trai.

Theo Thánh Phaolô, người nào hiểu khiêm tốn là sự thật, người đó là người khôn ngoan, biết chừng mực. Phaolô cũng khuyên các tín hữu đừng có một ý tưởng sai lầm và phóng đại về mình, phải biết đánh giá đúng về mình. Kiểu nói "hãy đánh giá mình cho đúng mức" cũng tương đương với kiểu nói "ham thích những gì hèn mọn". Qua đó, Thánh Phaolô muốn nói : người ta khôn khi khiêm tốn, và người ta khiêm tốn khi khôn. Biết hạ mình là tiến đến gần sự thật.

Thánh nữ Têrêxa Giêsu viết: "Một ngày nọ, tôi đã tự hỏi vì sao Chúa yêu thích sự khiêm tốn đến thế. Bất chợt, không cần suy nghĩ, tôi có ý tưởng này : đó là vì Ngài là Chân lý tối cao và vì sự khiêm tốn là chân lý". Vậy là thánh nữ cũng đi đến kết luận như Thánh Phaolô. Thiên Chúa đã thông truyền cho thánh nữ chân lý lời Ngài không bằng con đường chú giải suy luận, nhưng bằng con đường minh chiếu bên trong.

Kinh Thánh cho chúng ta thấy một mẫu gương tuyệt vời về sự khiêm tốn: Đức Maria. Trong lời kinh Magnificat, Đức Maria ca ngợi Thiên Chúa đã nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn. Khi nói về sự hèn mọn của mình, Người không có ý nói về sự khiêm nhường của mình đâu, nhưng là nói đến thân phận thực sự hèn mọn của mình, thuộc vào số những người hèn mọn nghèo khó trong Kinh Thánh. Việc Người minh nhiên nhắc đến bài ca của bà Anna, mẹ Samuel (1Sm 1,11), cho thấy điều đó (Đức Maria sử dụng cùng một từ có nghĩa là lầm than, son sẻ, thân phận thấp hèn). Chứ ở đây không phải Người ý thức về sự khiêm tốn của mình. Làm sao Người dám ca ngợi sự khiêm tốn của mình ? Tự cho mình là khiêm tốn thì còn khiêm tốn nỗi gì? Đó là kiêu ngạo. Và làm sao ta dám nghĩ Người coi việc Thiên Chúa tuyển chọn mình là do mình khiêm tốn? Việc tuyển chọn hoàn toàn là do ý Thiên Chúa, là ơn nhưng không của Thiên Chúa, chứ đâu phải vì Mẹ khiêm tốn. Hơn nữa, nghĩ như thế là không hiểu được cả cuộc đời của Mẹ.

Đức Maria khiêm tốn trong cả cuộc đời, cho dù gặp bao nhiêu khó khăn thử thách. Ta có thể nhận ra điều này trong cách Người theo dõi con mình: yên lặng, xa xa vậy. Thậm chí không muốn đứng ở hàng đầu để nghe Đức Giêsu giảng cho dân, mà còn đứng ở ngoài nữa, đến nỗi phải nhờ người khác xin với Chúa để được gặp (Mt 12,46tt).

Dù là Mẹ Chúa, Đức Maria không coi việc ở gần Chúa như ở gần một kho tàng dành riêng cho mình. Người từ bỏ mình, nhận thân phận một nữ tỳ, giống mọi phụ nữ khác. Lời khuyên của Phaolô được áp dụng cách hoàn hảo nơi Mẹ. Mẹ không ước vọng những điều cao sang, chỉ hài lòng với những gì hèn mọn.

Chúng ta cũng có thể thấy sự khiêm tốn kiểu trên trong cuộc đời của nhiều vị thánh. Một hôm, có một người bạn hỏi Phanxicô Assisi xem làm sao mà mọi người đều chạy theo ngài, và muốn thấy ngài như vậy. Phanxicô trả lời : đó là vì Thiên Chúa không thấy ai xấu xa hơn ngài, không ai tội lỗi hơn ngài. Đấng thánh nghĩ rằng người ta tò mò muốn xem một tội nhân, nhưng dân chúng lại tò mò muốn xem một thánh nhân. Thánh Bênađô thì nói đơn sơ như sau: "Người thực sự khiêm tốn luôn muốn được coi là xấu xa, chứ không muốn được tuyên dương là khiêm tốn".

Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta thấy có cái gì đó không ổn. Tất cả mạng sống, của cải, tiền bạc, địa vị, danh vọng của chúng ta đều thuộc về Chúa. Chúa là chủ, chúng ta chỉ là người quản lý nhưng chúng ta lại đánh đổi cái vị trí tuyệt vời ấy. Chúng ta có cái gì đó giống giống ông bà nguyên tổ. Ông bà được Thiên Chúa mời gọi trông nom, quản lý, giữ gìn và Thiên Chúa ưu đãi nhưng không chịu. Muốn làm chủ Thiên Chúa nên đã gây ra biết bao nhiêu chuyện đổ nát trong hành trình đời người. Chúng ta là người quản lý, người đầy tớ của Chúa vậy mà chúng ta không biết, chúng ta đánh tráo vị trí ấy nên rồi cuộc đời của chúng ta cũng giống như cuộc đời của ông bà nguyên tổ. Suốt cuộc đời phải vất vả lầm than do sự cao ngạo của mình. Lời thánh vịnh 130 thật hay :

Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi
Đường cao vọng chẳng đời nào bước
Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu
Hồn con con vẫn trước sau
Giữ cho thinh lặng giữ sao an bình
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trông con hồn lặng lẽ an vui
Cậy vào Chúa Israel ơi
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm
(Tv 130,1-3)

Vâng ! Như Thánh Phaolô tông đồ nói có cái gì mà chúng ta không lãnh nhận từ Chúa đâu mà chúng ta vênh vang ? Tốt hơn hết là chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm tình khiêm hạ.

Khi và chỉ khi chúng ta nép mình vào lòng Chúa như trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ chúng ta mới bình an thật sự. Nép mình vào vật chất, vào của cải, vào dục tình, vào địa vị đến một lúc nào đó chúng ta sẽ điên đảo, quay cuồng với vật chất, của cải, dục tình, địa vị và bi đát cuối cùng là chúng ta sẽ bị tất cả những thứ ấy đè bẹp cuộc đời chúng ta và chúng ta sẽ đánh mất đi ân phúc mà Thiên Chúa dành cho ta như thuở ban đầu Thiên Chúa dành cho ông bà nguyên tổ.

Một chuyện vô cùng nghịch lý mà chúng ta vui vẻ sống cái nghịch lý ấy giữa đời thường. Thử hỏi mỗi người chúng ta có thích sống với những người kiêu ngạo hay không ? Vậy mà nhiều lần nhiều lúc vô thức hay hữu thức chúng ta lại cư xử một cách quá kiêu ngạo với anh chị em đồng loại. Chính từ sự kiêu ngạo, cái tôi qúa lớn của mỗi người chúng ta đã bây biết bao nhiêu tổn thương, bao nhiêu đổ nát cho anh chị em đồng loại. Chẳng nói gì xa đến anh chị em đồng loại, chúng ta thử xét ngay trong mái ấm, trong gia đình của chúng ta xem, chúng ta sống như thế nào, có khiêm hạ như Chúa, như Mẹ, như các thánh đã sống hay không ? Hay là chúng ta lên mày lên mặt với những người kém may mắn hơn chúng ta ?

Điều chúng ta không thích, chúng ta đừng làm cho người khác. Chúng ta không thích người khác kiêu ngạo với chúng ta thì chúng ta đừng kiêu ngạo với người khác.

Muốn như thế, không còn cách nào khác hơn cái cách mà Chúa mời gọi mỗi người chúng ta. Thật tuyệt vời, Chúa nói : "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng ..."

Cuộc đời của mỗi người chúng ta, ít nhiều trong chúng ta, ai ai cũng mang những gánh, những vác thật nặng nề để rồi nghe lời Chúa nói với chúng ta hôm nay, chúng ta lại hoàn toàn yên tâm đến với Chúa để chúng ta trút nhẹ gánh lo vào tay Chúa.

Chúa vẫn ở đó để chờ chúng ta, còn chúng ta thì sao ?

Đó là câu trả lời của mỗi người chúng ta sau khi tham dự Thánh lễ, sau những lần cầu nguyện và nhất là những lần phải đối diện với những lo âu vất vả của cuộc đời.

Nguyện xin Chúa là thầy dạy lòng khiêm nhường đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài dạy chúng ta ngày mỗi ngày biết cách sống khiêm nhường hơn.

Xin Chúa giúp chúng ta sau những vất vả lo toan của cuộc đời không đi tìm nơi nào khác vì chỉ nơi Chúa chúng ta mới được nghỉ ngơi, được bồi dưỡng và được bình an đích thực.

VƯỢT QUA KHỔ ĐAU
Mt 11, 25 - 30
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Người ta luôn không hài lòng về số phận của mình ( On n'est pas toujours content de son sort ). Câu ngạn ngữ trên đây một cách nào đó nói lên thực trạng của con người trong kiếp nhân sinh lữ thứ. Đời là một bể trời khổ dâu. "Thoặt sinh ra thì đà khóc chóe. Trần có vui sao chẳng cười khì ?" Lời than của một thi nhân Việt Nam như chứng thực điều này. Hết chuyện ngày ngày lo kế sinh nhai "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", thì lại đến chuyện gia thất "con là nợ, vợ ( chồng ) là oan gia, cửa nhà là nghiệp chướng ! Những cảnh vui, cảnh an bình thì thấp thoáng như vó câu qua cửa, còn các chuyện buồn, cảnh khổ thì cứ đằng đẵng tiếp nối dù lòng chẳng mong, chẳng đợi bao giờ.

" Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" ( Mt 11,28 ). Một lời mời gọi vừa đượm tình vừa rất hiện sinh. Hiện sinh vì nó nó đáp ứng nhu cầu của mọi người mọi thời và mọi nơi. Ngoại trừ các em bé còn trong nôi hay các bé thơ chưa biết nhìn đời với con mắt phản tỉnh, hầu như khi đã biết nghĩ suy một cách nào đó thì ngay cả các bé thiếu nhi, thiếu niên cũng không thoát được sự "bể dâu" của cuộc đời. Nó đượm tình vì nó nói lên việc Đức Kitô đã chung thân, đồng phận với nhân trần chúng ta khi làm người, đặc biệt trong mọi cảnh tình khốn khó.

Cũng có thể như lời Đức Phật dạy : vì quá ham muốn (dục), mà không toại nguyện thì chuốc lấy sự khổ đau. Nhưng đã là người thì tránh sao được cái sự muốn. Ý chí tự do là một trong nhữg ưu phẩm của con người trổi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Khi anh không muốn cũng là lúc anh muốn cái sự không muốn. Để giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, Đức Phật đề ra con đường "tri -kiến" là nhận thức sự vô thường của vạn vật để rồi tạo lập một thái độ tạm gọi là "dửng dưng" vô niệm, vô úy, vô chấp. Đây là một trong những con đường tự giải thoát bản thân khỏi cái vòng lẫn quẩn của vô minh. Thế nhưng, dù sao đó cũng là một kiểu "giác ngộ" của con người, là sản phẩm của loài thụ tạo. Đức Khổng Tử thì đề ra con đường "trung dung", chính danh, chính phận. Tức là sống đúng danh phận của mình cách hài hòa cân đối, không bất cập mà cũng chẳng thái quá. Khi mọi sự ở trong trật tự của chúng thì cái sự khổ sẽ dần mất đi. Lão Tử thì vẽ ra con đường "vô vi": Làm mà như không làm... Mỗi hiền nhân mỗi con đường, nhưng thảy đếu là những con đường xuất phát từ người trần gian.

Để vượt qua bao khổ lụy kiếp người, Chúa Kitô mời gọi nhân trần chúng ta hãy mang lấy ách của Người, tức là hãy làm môn đệ của Người. Làm môn đệ của Người là bước đi theo con đường Người đã đi. Để có thể tiếp bước theo Người thì Người mời gọi chúng ta là hãy học cùng Người sự hiền lành và khiêm nhượng. " Hãy học cùng tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" ( Mt 11,29 ).

Hai từ khiêm nhu rất dễ khiến chúng ta liên tưởng đến thái độ, cung cách hạ mình. Thế nhưng, thái độ khiêm nhường đích thực là nhìn nhận bản thân đúng như mình là trong các mối tương quan với tha nhân, với các loài thụ tạo và với Thiên Chúa, Đấng Tạo thành mọi sự. Người khiêm nhu là người trên hết, trước hết, biết nhìn nhận mình là loài được tạo nên và vì thế, mình chỉ là mình, khi sống, hoạt động theo ý muốn của Đấng dựng nên mình. Ý thức được điều này và tin nhận sự thật này, đồng thời tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật thì việc bước theo Đức Kitô, làm môn đệ của Người, là lẽ tất yếu đương nhiên.

Hai từ hiền lành cũng đễ làm ta liên tưởng đến một thái độ sống mềm mại, dịu dàng. Thế nhưng sự hiền lành đích thực là một thái độ sống vuông tròn bổn phận trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch. Hình ảnh người mẹ hiền, cô dâu hiền minh chứng cho sự thật này. Học ở Đức Kitô sự hiền lành là biết đi đến cùng trong bổn phận của "người tôi tớ vô dụng" ( x. Lc 177-10 ) chỉ làm những gì phải làm. Và điều chúng ta cần phải làm xuyên suốt mọi hoạt động đó là trả món nợ yêu thương. Bởi tình yêu, ta được chào đời, thì cho tình yêu ta sống kiếp người.

Khi đã tự nguyện làm môn đệ Đức Kitô thì chúng ta cần phải bước đi trên con đường đạo lý yêu thương Người đã đi. " Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" ( Ga 15,12 ). Đây chính là giới răn mới, giới răn mà Chúa Kitô truyền lại khi Người sắp từ bỏ trần gian mà về cùng Chúa Cha. Sự êm ái ngọt ngào khi mang lấy ách của Chúa Kitô đó là biết sống yêu thương như Người đã yêu.

Thánh giáo phụ Âugustinô đã nói : " Hãy yêu đi, rồi làm gì thì làm". Khi đã yêu thì sẽ không còn đau khổ. Dù cho đau khổ vẫn có đó, còn đó, nhưng nó đã được yêu rồi. Với thánh Tông Đồ dân ngoại thì khi đã được yêu rồi thì thập giá không còn là sự điên rồ hay nổi ô nhục mà trở thành niềm vinh dự.

Đau khổ phát sinh, có thể là do lỗi hay tội của bản thân hay của tha nhân. Nhưng dù sao đi nữa vẫn có đó nhiều nổi khổ đau thật khó tìm ra nguyên do, căn cớ. Đau khổ là một huyền nhiệm. Chúa Kitô đã không đưa ra một lời giải đáp rạch ròi về nguyên nhân của khổ đau, nhưng Người đã tự nguyện mang nó vào chính bản thân mình để thể hiện tình yêu. Đó là mầu nhiệm thập giá. Đau khổ quả là một sự dữ, nhưng nó sẽ chẳng là gì trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô đã biến khổ đau thành ân phúc.

Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng... Nếu ta vẫn đang ngụp lặn trong bao đau khổ, chắc hẳn vì ta chưa đáp lại lời mời của Đấng Cứu Độ là hãy đến với Người. Đến với Người ta sẽ gặp "Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa..., Đấng bẻ gãy mọi cung nỏ của chiến tranh, Đấng công bố hòa bình cho muôn dân" ( Dcr 9,9-10 ). Đến với Đấng Cứu độ, ta sẽ được Thần Khí của Người đổi mới và "chúng ta sẽ diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta và chúng ta sẽ được sống, sống trong an bình." ( x. Rm 8,13 ).

HÃY KHIÊM NHƯỢNG VÀ HIỀN LÀNH
Mt 11, 25 - 30
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Cuộc sống của Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo về sự khiêm nhượng và hiền lành. Ngài là Đấng chí tôn, chí thánh. Ngài là Đấng đầy quyền lực uy phong. Với cương vị của Ngài, đáng lẽ ra Ngài phải vênh vang, chiến thắng và không hề nhường bước. Nhưng, Đức Giêsu lại hoàn toàn trái ngược với quan niệm và cách sống của người đời. Chúa đã sống và dạy các môn đệ, cũng như mọi người phải biết tạ ơn tri ân Thiên Chúa Cha, đồng thời làm gương sống động về sự khiêm nhu và hiền lành,rồi mời gọi tất cả hãy học nơi Ngài sự khiêm nhượng và hiền lành.

Chúa Giêsu nói :" Anh em hãy mang lấy ách của tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng "( Mt 11, 29 ). Sau lời chúc tụng, tạ ơn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha vì Cha của Ngài đã mạc khải cho những kẻ bé mọn mà không tỏ ra cho những người thông thái và học cao hiểu rộng biết về Nước Trời. Bởi vì, những người tự kiêu tự đại, những kẻ vênh váo, hiếu chiến, hiếu thắng, phô trương, cậy mình tài giỏi, khôn ngoan hơn những người khác,chẳng mấy ai ưa, chẳng mấy ai muốn làm bạn, mà chính Chúa Cha cũng khinh chê, bằng chứng nhan nhản trong Tin Mừng khi Chúa Giêsu nói tới bọn Biệt Phái, Luật Sĩ và Pharisiêu. Đây là những hạng người tự phụ cho mình là đạo đức nhưng họ chỉ là những bọn giả hình, bề ngoài thì tỏ ra bệ vệ, đạo đức nhưng bên trong chứa đầy nọc độc, bẩn thỉu, thúi tha. Những kẻ khiêm tốn, những kẻ bé mọn, những người nghèo của Thiên Chúa là những người hiền hậu, khiêm nhường nhận mình là bé nhỏ, yếu hèn, là không trước mặt Thiên Chúa, nên họ được tất cả mọi người quí mến, kính phục và Thiên Chúa yêu thương, ban cho họ Nước Trời." Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn " ( Mt 11, 25 ). Những kẻ tự phụ tự mãn, kiêu căng sẽ không còn chỗ cho Thiên Chúa ngự trị, chỉ có những kẻ xem mình là trống rỗng mới còn chỗ cho Thiên Chúa hiện diện. Chúa Giêsu đã sống, đã làm gương trước cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta về gương khiêm nhượng và hiền lành. Ngài là Con Thiên Chúa nhưng Ngài đã tự hạ, mặc xác phàm làm người ..."( Philip 2, 7-8 ). Ngài đã thương tha thứ cho Maria Madalêna, cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đã cứu ông Giakêu khỏi danh vọng, tiền của trần gian, đã đồng bàn với những người tội lỗi, yếu hèn. Ngài đã tha thứ cho người con hoang đàng trở về, đã tha thứ cho Phêrô vì ông chối Ngài ba lần, đã cứu Phaolô khỏi sự hung hăng truy lùng Giáo Hội, làm cho ông trở nên tông đồ cho dân ngọai, Ngài đã chăm sóc cho từng con chiên, đến để chiên được sống dồi dào, Ngài đã tha thứ cho tất cả những ai hành hạ, xỉ nhục và giết Ngài. Tuyệt đỉnh của sự khiêm hạ và hiền lành của Ngài là Ngài không kêu ca, không la hét khi người ta bắt điệu Ngài đem xử án và đem đi giết. Ngài im lặng vâng lời Thiên Chúa Cha:" Lạy Cha nếu được thì xin cất chén đắng này khỏi con nhưng đừng theo ý Con mà theo ý Cha". Sự cao cả, thánh thiêng và hoàn toàn khiêm hạ ( Kénosis ) của Ngài khi bị treo trên thập giá. Ngài đã qui tụ nhân loại dưới chân thập giá :" Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta ".

Chúa Giêsu sẽ không cất gánh nặng cho chúng ta, nhưng nếu chúng ta nhận mang lấy ách của Ngài, chúng ta sẽ có thể mang gánh nặng của mình. Ach là một cái cày bằng gỗ nặng, nó được đóng để tròng vào cổ của đôi bò, để giữ bò lại và để bò kéo xe. Ach ở đây còn có nghĩa là trò chơi chữ của Chúa, bởi vì người Do Thái thường gọi giáo lý mà học viên phải học là " gánh nặng " và việc học viên phải học thuộc lòng các bài giáo lý là " ách ". Do đó, chúng ta hiểu được thế nào là ách và gánh của Chúa. Ach của Chúa thì êm ái và gánh của Chúa thì nhẹ nhàng. Lời mời gọi của Chúa làm chúng ta hạnh phúc và an tâm vì chúng ta luôn như thấy có Chúa đang ở bên chúng ta để an ủi, nâng đỡ, và cất đi những u sầu, nhưng thử thách trong cuộc đời của chúng ta. Chúa luôn đến với con người, đến với chúng ta như Ngài đã đến với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi, những kẻ tật nguyền, những người phong hủi, mhững kẻ bị bỏ rơi bên lề xã hội loài người. Chúa đã đón nhận tất cả mọi người, Ngài đồng hóa với họ, với những con người bé mọn tầm thường nhất, Ngài đã nói :" Ai cho một kẻ bé mọn ăn, cho kẻ khó nghèo uống nước, dù chỉ là chén nước lã cũng là cho chính Ta ". Chúa đã mang lấy tất cả những nỗi khổ đau cho nhân loại, đã gánh tội cho nhân loại dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội, Chúa đã bổ sức và tăng sinh lực cho chúng ta để chúng ta được sống và sống dồi dào. Theo gương Ngài chúng ta cũng hãy sống như Ngài:" Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng" ( Mt 11, 29).

Chúa đã thương mọi người, đã cứu chuộc mọi người, Ngài không muốn lọai trừ ai. Cuộc đời của Chúa là cả một cuộc đời cầu nguyện. Ngài cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng. Tình thương của Ngài thật vô biên. Do đó, Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn và khiêm tốn, giúp chúng ta hiểu ra được lòng thương xót của Thiên trong cuộc đời của chúng ta, trong từng thử thách, từng biến cố xẩy ra trong đời sống chúng ta.

Chúa gìn giữ và nâng đỡ, củng cố đức tin cho chúng ta. Nên, trong cuộc hành trình đức tin, chấp nhận thử thách, chấp nhận vác thập giá của mình mỗi ngày mà theo Chúa, chắc chắn con người sẽ được bình an và được Chúa yêu thương, bổ dưỡng tâm hồn.

Tập sống như Chúa hiền lành và khiêm nhượng, chắc chắn chúng ta sẽ được những người khác quí mến.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết học cùng Chúa gương khiêm nhượng và hiền lành.

NGƯỜI BÉ MỌN CỦA TIN MỪNG
Mt 11, 25 - 30
Lm Trần Thanh Sơn

Tin mừng Chúa Nhật 13 vừa qua, Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy cách Thiên Chúa đánh giá các sự việc. Ngài không có những hứa hẹn bên ngoài, cũng không đánh giá trị của chúng ta dựa vào khối lượng công việc mà chúng ta thực hiện, cho bằng dựa vào động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu đó là một lý do tốt thì dù công việc bé nhỏ cũng có giá trị và được trả công xứng đáng.

Lời Chúa hôm nay tiếp tục cho chúng ta thấy một nghịch lý nhưng không vô lý của Tin mừng: đó là việc Chúa Cha mạc khải chân lý cho những người bé mọn nhưng lại giấu đối với những người hiền triết và khôn ngoan, hay nói đúng hơn, đối với những người tự cho mình là hiền triết và khôn ngoan (x. Mt 11, 25). Nhưng ai là người bé mọn mà Tin mừng muốn nói đến hôm nay?

1. Người bé mọn theo Tin mừng:Để có thể nhận ra ai là người bé mọn được mạc khải Tin mừng, chúng ta có thể điểm qua danh sách các môn đệ của Đức Giêsu, bởi họ chính là những người được mạc khải Tin mừng Nước Thiên Chúa cách rõ ràng nhất. Trong đó, chúng ta thấy có Phêrô và các bạn là những ngư phủ thất học như cái nhìn của người Do thái, có Matthêu, một quan chức nhà nước làm nghề thu thuế, một người tội lỗi theo cái nhìn của người Do Thái. Rồi sau này còn có cả Phaolô, một người Biệt Phái, dòng dõi quý phái, học trò của Rabbi Gamaliel nổi tiếng (x. Pl 3, 5). Như thế, các môn đệ của Đức Giêsu gồm đủ mọi hạng người. Điều đó, cho thấy Ngài không hề từ chối bất cứ một người nào đến với Ngài, dù đó là nam hay nữ, già hay trẻ, tầng lớp lao động hay trí thức, công chính hay tội lỗi. Nhưng chỉ cần họ sẵn sàng mở lòng là họ sẽ đón nhận được lời Đức Giêsu rao giảng.

Như thế, chúng ta có thể có một khái niệm sơ khởi về hình ảnh người bé mọn mà Đức Giêsu đề cập tới trong bài Tin mừng hôm nay. Người bé mọn không dựa vào trọng lượng cơ thể, cũng không dựa vào tuổi tác hay trình độ văn hoá, nhưng là dựa vào cách sống và cách mỗi người đón nhận sự việc.

Trước hết, người bé mọn là người không sống theo xác thịt, nhưng luôn sống theo Thánh Thần (x. Rm 8, 9). Trong cuộc sống hiện nay, do ảnh hưởng bởi chủ nghĩa thực dụng, đứng trước mỗi việc, chúng ta thường lý luận và tìm cách giải quyết theo khả năng của mình và khi có kết quả, chúng ta mặc nhiên coi đó là do sự tài giỏi của mình. Nhưng thực tế, không phải là như thế, trong thư gởi tín hữu thành Corinhtô, thánh Phaolô đã từng nói: "Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?" (2 Cr 4, 7), nghĩa là mọi sự chúng ta có đều do bởi ơn Chúa. Thật vậy, có ai trong chúng ta đây có thể tự tạo ra mạng sống và trí khôn cho mình đâu. Tất cả những gì chúng ta có đều được nhận lãnh.

Thật vậy, giống như một cái ly đầy nước thì không thể đổ thêm vào được, một người nghĩ rằng mình đã đầy đủ rồi thì không thể tiếp nhận thêm bất cứ điều gì. Người ta chỉ có thể đón nhận cái gì mà mình còn thiếu, chưa có. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Trẻ em luôn thắc mắc vì em chưa biết nhiều. Do đó, các em dễ học được nhiều cái mới hơn người lớn. Người lớn ít thắc mắc vì hai lý do: một là đã biết rồi; hai là vì tự ái sợ người khác cho rằng mình dốt nên không dám hỏi (nhưng chúng ta quên một điều: nếu hỏi chỉ mang tiếng dốt một lần thôi, còn nếu như không hỏi sẽ dốt suốt đời), nên cũng khó đón nhận những thay đổi, những suy nghĩ khác với suy nghĩ của mình. Như thế, một cách nào đó, trẻ em chính là người bé mọn, còn người lớn là những người hiền triết và khôn ngoan. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa không hề có thái độ kỳ thị, mạc khải cho người này, bỏ người khác, nhưng là do con người có muốn mở lòng mình ra để đón nhận mạc khải hay không.

Kế đến, người bé mọn là người không kiêu căng, hợm hĩnh nhưng là người tác tạo hoà bình. Ngôn sứ Zacharia trong bài đọc một đã mô tả về Đấng Messia của Thiên Chúa với những lời lẽ hết sức nhẹ nhàng như sau: "Nầy vua ngươi đến với ngươi... Người khiêm tốn ngồi trên con của lừa mẹ.. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ephraim và ngựa Giêrusalem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người công bố hoà bình cho các dân tộc." (x. Dcr 9, 9-10). Thế đó, một vị vua không ngồi trên lưng con Thiên lý mã bách chiến, bách thắng, nhưng là cỡi trên con lừa con. Một vị vua không xây thành đắp lũy, nhưng lại loại bỏ chiến xa, phá huỷ cung tên; không gây chiến, nhưng công bố hoà bình. Một vị vua sống tinh thần bé mọn, cũng là vị vua luôn tìm cách tạo dựng bình an.

Tóm lại, người bé mọn theo Tin mừng là người nhận ra sự thiếu thốn của mình và luôn biết mở lòng để đón nhận người khác, biết tác tạo hoà bình trong đời sống. Những người như thế sẽ đón nhận được mạc khải của Nước Thiên Chúa.

Quy chiếu với đòi hỏi của Tin mừng, tôi và quý vị đang là hạng người nào? Chúng ta là những người hiền triết và khôn ngoan hay là người bé mọn? Đây là câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự trả lời trước mặt Chúa, nếu muốn đón nhận được mạc khải Nước Trời.

2. Gia đình sống tinh thần bé mọn:

Trong đời sống gia đình, nếu cả hai vợ chồng đều ý thức biết sống tinh thần bé mọn của Tin mừng, nghĩa là cả hai vợ chồng đều ý thức rằng mọi sự không do bởi mình, hơn nữa, mình còn phải đón nhận rất nhiều từ nơi người bạn của mình, cụ thể như: người chồng cần hiểu rằng nếu không có một người vợ tần tảo ở nhà thì tất cả những gì mình làm ra sẽ có thể không cánh mà bay; còn người vợ cũng cần ý thức: nếu không có bàn tay người chồng thì mình cũng chẳng có gì để mà tần tảo, tiết kiệm hay nói theo cách nói của cha ông chúng ta, cả hai vợ chồng cần nhớ rằng: "của chồng, công vợ". Đồng thời, luôn ý thức nhường nhịn, sống hiền lành, tạo bầu khí bình an trong gia đình theo gương Chúa Giêsu, thì ắt hẳn mầu nhiệm hạnh phúc gia đình theo tinh thần Tin mừng cũng sẽ được mạc khải cho từng người chúng ta.

Tương tự như thế, sống trong cộng đoàn, không ai trong chúng ta có thể tự lo cho mình hết mọi việc. Chúng ta cần thợ để hớt tóc, may đồ; cần có bác sĩ để chữa bệnh, cần anh công nhân làm ra các sản phẩm sử dụng mỗi ngày; cần người đánh cá, cần người quét đường... Tóm lại, không ai trong chúng ta có thể sống cho riêng mình, nhưng cần khiêm tốn, nhận ra sự thiếu thốn của mình để đón nhận người khác, và tích cực góp sức mình để xây dựng và làm phát triển cộng đoàn.

Còn ngược lại, nếu chúng ta tự cho mình là "hiền triết khôn ngoan", nghĩa là đầy đủ, không cần đón nhận ai nữa. Chắc hẳn mầu nhiệm về hạnh phúc gia đình, về bình an trong cộng đoàn cũng sẽ bị giấu kín đối với chúng ta.Giờ đây, bí tích Thánh Thể sắp cử hành trên bàn thờ đây cũng là một mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta hãy mở rộng lòng trong tâm tình của những người con bé nhỏ, sẵn sàng đón nhận Ngài ngự vào tâm hồn mình. Nhờ đó, mỗi người chúng ta được thêm ân sủng để có thể ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.

BÉ MỌN THÔI CHƯA ĐỦ
Mt 11, 25 - 30
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu cũng trải qua lắm nổi truân chuyên, nhiều thành công nhưng cũng không thiếu sự thất bại bởi sự cứng lòng của con người. Nhìn lại hành trình đã qua, Chúa Giêsu nhận thấy rằng thì ra sự khôn khoan thông thái của Chúa Cha dường như "chỉ dành riêng" cho những con người bé mọn hơn là cho những kẻ tự nhận mình là uyên bác, thông thái. Lời kinh tạ ơn của Chúa Giêsu không ngoài việc chúc tụng tôn vinh công trình kỳ diệu mà Chúa Cha đang thực hiện mà còn là một lời mời gọi những ai được Cha ưu ái thương yêu hãy đồng hành với Người, chia sẻ với Người và cùng gánh lấy "ách êm ái, nhẹ nhàng của sự hiền hậu và khiêm nhường" nơi Người.

Lời kinh tạ ơn của Chúa Giêsu xem ra chẳng "ăn nhập" gì với những thất bại mà Người gặp phải trên đường rao giảng Tin mừng. Bởi ngay lúc Chúa Giêsu quở trách các dân thành cứng lòng tin, chứng kiến hầu hết các phép lạ Người thực hiện nhưng vẫn không chịu sám hối ăn năn (x. Mt 11, 20-24), Người lại dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Vâng, Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha, bởi trong chính sự thất bại, Người khám phá ra chân lý, rằng tất cả sự thành công hay thất bại đều không nằm ngoài thánh ý của Cha Người. Không chỉ có thế, Chúa Giêsu còn thấy rằng mầu nhiệm cứu độ mà Người đang loan báo nếu chỉ thất bại trước những con người tự cho mình là khôn ngoan thông thái - những người tự cho rằng họ nắm giữ toàn quyền chìa khoá sự hiểu biết, túi khôn nhân loại; thì nay, mầu nhiệm đó lại được mở toang cho số đông những con người bé mọn, những kẻ khiêm nhường, hiền hoà nhân hậu, những con người có tâm hồn đơn sơ khó nghèo.

Thật ra trong lịch sử dân thánh, chúng ta chứng kiến nhiều trường hợp Thiên Chúa mạc khải sự khôn ngoan của mình cho những kẻ bé mọn. Một Samuel bé thơ, nhưng lời nói của em về việc Giavê Thiên Chúa trừng phạt gia tộc tư tế Hêli đã làm cho Hêli thốt lên : "Người là Giavê, xin Người cứ làm điều Người cho là tốt" (x. 1 Sm3, 1-18); một cậu bé Đavít còm cõi, tóc cháy xém vì nắng do phải chăn chiên ngoài đồng, lại được Giavê Thiên Chúa cất nhắc làm vua một dân tộc vĩ đại và là dòng dõi xuất thân của Đấng Mêsia (x. 1 Sm 16); và một Đaniel và các bạn là Khanania, Misael va Adaria được Giavê Thiên Chúa "ban ơn hiểu rộng biết nhiều về tất cả chữ nghĩa và lẽ khôn ngoan" (Đn 1, 17) để đương đầu với vua chúa và các vị bô lão trong dân vốn được xem là thông thái khôn ngoan (x. Đn 2.13). Thế nên, lời chúc tụng tạ ơn của Chúa Giêsu về điều mà Cha Người đã che giấu đối với những kẻ tự cao tự đại, nhưng lại mạc khải cho những kẻ đơn sơ bé mọn quả là chính đáng và phải lẽ. Bởi Chúa Cha đáng được chúc tụng và tôn vinh về điều tưởng chừng không đáng gì để tụng ca, nhưng lại là điều vô cùng quan trọng với những ai hiểu được thánh ý Người.

Những kẻ bé mọn được Chúa Cha mạc khải sự khôn ngoan và mầu nhiệm nước trời thông qua người con chí ái là Chúa Giêsu. Thế nhưng bé mọn thôi chưa đủ, Chúa Giêsu còn mời gọi hết những ai được Chúa Cha yêu thương hãy đến với Người và học hỏi nơi Người về lòng hiền hậu và khiêm nhường. Họ sẽ được Người chia sẻ với gánh nặng thế trần, thay vào đó là ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Người.

Ach êm ái và gánh nhẹ nhàng của Chúa Giêsu không gì khác hơn chính là đạo lý, là giáo huấn và là chính con người Chúa Giêsu. Để có được ách và gánh đạo lý này, người theo Chúa Giêsu cần phải học cho được thế nào là khiêm nhường và hiền hậu từ nơi Người. Hiền hậu là khiêm nhường là hai thái độ sống căn bản, là chìa khoá của mọi nhân đức, là điểm nối kết tình yêu giữa hai tâm hồn luôn hướng về nhau.

Khiêm nhường là biết mình. Biết mình thân phận mỏng dòn, yếu đuối, dễ sa ngã; biết mình cần sự trợ giúp, cần được tôi luyện mỗi ngày; biết mình cần đến tình yêu, cần đến sự tha thứ và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Khiêm nhường đích thực luôn hướng về Thiên Chúa chứ không phải để "đánh bóng" bản thân mình.

Còn hiền hậu vốn được xem như thái độ hướng về tha nhân. Đó chính là thái độ nhẹ nhàng, khoan dung, độ lượng và nhân ái. Hoa quả của sự hiền hậu chính là không cứng rắn cọc cằn, không hằn học bon chen, không tranh chấp oán hờn, không lên án bạo động,... Chúa Giêsu chính là mẫu gương của sự hiền hậu đích thực và Người mời gọi chúng ta bước theo Người trên con đường này, nhờ đó nhân loại được Chúa chúc lành.

Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta sống lại lời kinh tạ ơn mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện khi xưa để không ngừng tạ ơn Chúa Cha về muôn điều kỳ diệu Người đã tỏ hiện cho chúng ta - những Kytô hữu hèn mọn. Đồng thời cũng là lời thúc giục chúng ta dấn bước theo Chúa Giêsu trong khiêm nhường và hiền hậu để không ngừng sống cho Chúa và mưu ích cho tha nhân.

GÁNH NẶNG
Mt 11, 25 - 30
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.

 "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta.

Theo nguyên nghĩa Hy lạp, thì chữ "vất vả mang gánh nặng nề" Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái bao đựng vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa thông thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp nhận. Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những vất vả và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.

Thực vậy, đời người giỏi lắm là được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy ? Trăm năm nào có gì đâu ? Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau khổ không theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói : "Gánh khổ mà đổ lên non. Cong lưng mà chạy khổ còn chạy theo". Đời là một bể khổ, đời là thung lũng nước mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là khổ : "Hữu sinh hữu khổ" là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hàng theo sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ của riêng mình.

Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng "vất vả và gánh nặng", và Chúa động viên, khích lệ, kêu gọi : "Hãy đến với Chúa" để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng : gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gáng nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác : vất vả với cuộc mưu sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá.

Ngoài ra, "gánh nặng còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng ? Ai cũng có những đau khổ riêng mình : người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác, người đi tu hay sống đời gia đình...không ai dám nói đời mình không có đau khổ. Cuộc đời trần gian là thế.

Như vậy, chúng ta dễ dàng chấp nhận : vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu, và chúng ta cũng nhìn nhận rằng : trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức chúng ta, chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi chán nản ư ? Thậm chí có những người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả cầu nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên nhớ : Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa là chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng đời mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng : Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói : "Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao", bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta : trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay đau khổ, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.

MỐI LIÊN LẠC GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT
Mt 11, 25 - 30
Br Nguyễn Kim Thanh, CMC
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Sau khi chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật đầy đủ, trước khi chính thức bắt tay vào việc. Bác sĩ nói với cháu bé:" Công việc làm cho cháu đầu tiên bây giờ là phải chích thuốc để cháu ngủ mê". Cháu gái dịu dàng thưa bác sỹ:" Cháu xin phép bác sỹ trước khi cháu đi ngủ, cháu cần ít phút cầu nguyện với Chúa của cháu, vì đây là thói quen mà má cháu đã dạy cháu phải cầu nguyện trước lúc đi ngủ". Thế rồi em bé quỳ gối lên, cầu nguyện một cách thật sốt sắng, cầu nguyện xong, em nói với bác sỹ:"Thưa bác sỹ, bây giờ cháu đi ngủ được rồi".

Sau đó, chính lúc em bé được giải phẫu thì vị bác sỹ cũng trong tư thế tâm sự và cầu nguyện với Thiên Chúa của ông, đây cũng là lần đầu tiên ông cầu nguyện sau hơn 30 năm tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với Chúa chẳng khác một người vô đạo.

Cầu nguyện chính là sức mạnh, là mối giây liên lạc mật thiết giữa Thiên Chúa và chúng ta. Sự đơn sơ, chân thành qua việc cầu nguyện của cháu bé bệnh nhân đã không chỉ đem lại cho em niềm vững tin chịu đựng, chấp nhận đau khổ, mà còn phát sáng niềm tin, thu hút đánh động lòng người khác trở lại sau một thời gian dài" lãng quên" Thiên Chúa.

Kinh nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Chúa Cứu Thế. Thánh Kinh đã nhiều lần ghi lại. Thánh sử Luca đề cập đến 11 lần. Thánh Matthêu kể đến 3 lần, Thánh Maccô và Gioan ghi lại 4 lần việc Chúa cầu nguyện. Nếu chúng ta so sánh việc cầu nguyện của Chúa Kitô với loài người chúng ta, thì có chút khác nhau. Khác nhau ở chỗ là khi Chúa cầu nguyện không có tâm tình sám hối, tâm tình nhận mình là hèn hạ, bất lực, vì Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa. Mà tâm tình cầu nguyện của Chúa là tạ ơn, ngợi khen qua công trình cứu độ của Ngài được uỷ thác bởi Chúa Cha.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc cầu nguyện của Chúa Kitô. Thánh Matthêu ghi lại thật chi tiết:" Vâng lạy Cha, ý Cha muốn như vậy, mọi sự đã được Cha trao phó cho Con, không ai biết Cha trừ ra Con, không ai biết Con trừ Cha và những kẻ Cha muốn mạc khải cho".

Chúa Giêsu ngước mặt lên trời và đối thoại với Cha trên trời. Một cuộc đối thoại thần linh giữa Cha và Con. Cha Con thật sự hiện diện, trao đổi, lắng nghe, luận bàn. So sánh cuộc sống thường hằng trong ngành bưu chính viễn thông, chúng ta thấy mỗi ngày, không biết cơ man nào là thư từ được gởi đi cũng như nhận vào. Những cuộc trao đổi chuyện trò trên điện thoại cũng như những hình thức khác qua mạng thông tin đã đem lại cho con người biết bao là tiện lợi. Trên lãnh vực tinh thần cũng thế, cầu nguyện chính là đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất. Nguyên nhân cầu nguyện chính là một nhu cầu, được phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa là chính. Cầu nguyện cũng đôi khi còn là một lời cầu cứu van xin. Hiệu quả sau khi cầu nguyện, người thành tâm sẽ có một tâm hồn an bình, biết tin tưởng và phó thác. Đôi lúc niềm đau và sự hụt hẫng vẫn còn trong thực tế, nhưng sau khi cầu nguyện họ sẽ trở nên kiên vững và biết chấp nhận. Giả sử như chúng ta vô ý, bất cẩn bị gãy chân trong tai nạn xe hơi, chúng ta rất lo lắng khi đang một mình trong hiện trường tai nạn. Sự đau đớn càng tăng khi nhận thấy máu chưa được cầm, có thể đưa đến mất mạng. Thế rồi sau khi được băng bó và chữa trị, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm ngay khi biết sự thật tình trạng thương tích và nhất là sự còn sống của mình. Cầu nguyện cũng tương tự như thế, được Thiên Chúa quan tâm và cứu vớt khiến ta trở nên an tâm và tin tưởng.

Cầu nguyện còn là một mạc khải của trời cao. Mạc khải này chỉ phát đúng sóng và trao đúng nguồn cho ai muốn nhận. " Cha đã dấu những bậc khôn ngoan thông thái điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha ( Mt 11,25-26 ).

" Kẻ bé mọn" chính là sắc phục riêng làm cho " Vị Chỉ Huy" của họ nhận ra họ trong trận chiến. Vậy kẻ bé mọn là ai?

Họ chính là những hạng đói khó được no đầy ơn phúc.
Họ là chú chiên đi lạc được chủ tìm về hội tụ với bầy đàn.
Họ là những diễn viên trên sân khấu trần gian, mà vai diễn của họ gắn liền với cuộc sống.

Đại diện họ là người mang tên Laziarô lở loét, đói meo, mon men đến bàn ăn của người phú hộ nhà giầu để được sự nguyền rủa, chửi mắng chứ đâu được no bụng dầu chỉ là xương thừa, canh cặn! Họ cũng còn là những người núp ẩn dưới hình ảnh người phụ nữ ngoại tình bị cộng đoàn lôi ra ngoài ném đá. Họ cũng là đứa con hoang đàng phung phá hết gia tài của cha già, nhưng đã biết hồi tâm, sám hối trở về với cha.Họ cũng là dáng dấp của kẻ tội lỗi nhưng sau khi nhận ra thì quyết tâm chừa cải như Madalena, như người trộm lành cùng đóng đinh với Đức Giêsu trên thập giá... Và còn rất nhiều những kẻ bé mọn khác chúng ta có thể gặp họ cách thường xuyên trong cuộc sống thường hằng. Nhưng, chỉ có điều chúng ta tìm gặp họ để làm gì?

Tìm gặp họ để chúng ta cảm thông như Đức Kitô đã cảm thông với người trộm lành trên thập tự giá.

Tìm gặp họ để cho họ thực sự trở về như trường hợp của ông Giakêu đã trở về với Chúa sau khi được Chúa đến nhà thăm ông.

Tìm gặp họ để họ được trở lại con đường ánh sáng mà họ đang tránh lẩn như trường hợp của ông Sao lô tức Thánh Phaolô trở lại sau này.

Tìm gặp họ ở những nơi, những chốn mà tình đời cũng như trường đời cho là trái nghịch, dở hơi. Đó lại là những yêu sách của tình yêu là đem yêu thương vào nơi oán thù, đem hoà bình vào nơi chinh chiến...

Tất cả những điều trên một khi nhận ra được tính xác thực của chúng qua cầu nguyện, Thiên Chúa sẽ tăng thiện chí cho những ai thành tâm, rồi cứ như cơn gió tạt vào đám cháy cũng sẽ thiêu rụi tất cả những phiền toái, những phức tạp, những nguy hiểm để thực hành đức ái. Người biết cầu nguyện cũng là người biết nhận ra tình yêu Thiên Chúa thể hiện qua cuộc sống thực tế thường ngày.

Chúng ta hãy cùng nhìn xem, một người bị cụt cả hai chân, hầu như cưa hết cả hai bắp đùi, hằng ngày ngồi trên một tấm gỗ, tấm gỗ này được đóng phía dưới năm bánh xe nhỏ. Phía trước mặt đặt một cái nón cói rách đang gò lưng bò về phía trước giữa phố chợ đông người hầu để kiếm sống qua ngày nhờ lòng hảo tâm bố thí của mọi người. Vậy mỗi khi gặp cảnh này, chúng ta có thái độ thế nào? Có khi nào chúng ta vẫn tỉnh bơ như không có gì xảy ra, vì chúng ta cho rằng đây là việc tất nhiên, xui ai, nấy chịu? Chúng ta chỉ có được sự thương cảm thật sự khi việc cầu nguyện giữa ta và Thiên Chúa gắn liền nhau cả trong tư tưởng và hành động.

Cầu nguyện là mối giây liên kết giữa Chúa và loài người. Thực hành cầu nguyện là loài người biết yêu thương nhau, chia sẻ và thông cảm cho nhau như chính Chúa đã làm cho loài người.

Lạy Mẹ Maria, chúng con khẩn nài Mẹ ban cho chúng con tình mến của Mẹ trong sự hợp nhất và mật thiết kết hợp với Thiên Chúa. Mẹ đã có một đời sống cầu nguyện vững vàng. Trái tim Mẹ luôn mãi thuộc về chỉ một mình Thiên Chúa. Và kết quả của sự cầu nguyện liên lỷ trong Mẹ là một hành trình đức ái yêu thương. Việc Mẹ đến thăm Bà Isave là một hiệu quả của cầu nguyện. Xin Mẹ ban cho chúng con mau chóng trở nên giống Mẹ trong cầu nguyện và thực hành việc cầu nguyện.

SỐNG THEO TINH THẦN
Mt 11, 25 - 30
Lm Minh Vận, CMC

Có cặp vợ chồng trẻ kia thường hay gây lộn với nhau theo tính nóng nảy của bản năng tự nhiên. Một hôm, người vợ không còn cầm hãm được lòng tức bực muốn trả thù, nên cô ta đã lên xe hơi, rồ ga lái một vòng lả lướt trêu ngươi trước xe chồng, khiến anh ta nổi xung cũng rồ máy tông luôn vào xe vợ cho hả dạ. Thế là hai chiếc xe mới của vợ, cũ của chồng bị tan tành; đồng thời, chẳng may lại còn đâm luôn vào xe hơi của một ông bạn Mỹ ở nhà bên cạnh nữa. Kết quả, anh chồng bị cảnh sát tống giam và bị tòa kết án là tội cố sát.

I. SỐNG THEO XÁC THỊT SẼ PHẢI CHẾT
Theo y khoa ngày nay những người mắc các chứng bệnh sau đây: Nghiện thuốc hút bị ung thư phổi. Say sưa bia rượu nhậu nhẹt quá trớn bị bệnh đau dạ dầy, lở loét, hư thận, da vàng. Ăn đồ ngọt quá nhiều cũng bị bệnh tiểu đường. Nghiện xì ke ma túy sẽ bị bệnh thần kinh, khiến con người mất quân bình, mát mát, khùng khùng. Nóng giận khiến con người mất khôn, làm tan cửa nát nhà, gia đình ly tán. Dâm ô xác thịt mê đắm sinh bệnh Aids, là thứ bệnh ghê tởm vô phương chữa trị của thời đại hôm nay, chỉ còn đợi thần chết. Đó cũng là thứ tội dân thành Sodoma và Gomora xưa, bị Chúa sai Thiên Sứ khiến lửa bởi trời xuống thiêu rụi bọn họ. Đúng theo lời Thánh Phaolô: "Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết" (Rom 8:13).

II. SỐNG THEO TINH THẦN SẼ ĐƯỌC VĨNH SINH
Còn chúng ta là con cái Chúa, Thánh Phaolô dạy: "Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để sống theo tính hư nết xấu của xác thịt" (xem Rom 8). Nhưng: "Nhờ tinh thần, chúng ta đã giết chết được các hành động lố lăng của xác thịt, của đam mê, của thú tính và dục vọng lăng loàn" (xem Rom 13).

Thực nghiệm trong cuộc sống, nếu chúng ta được giải thoát khỏi những đam mê của thân xác, khỏi những ràng buộc của tội lỗi, khỏi những kìm hãm của dục vọng; chúng ta sẽ thấy lương tâm an vui, tâm hồn thoái mái; được hưởng an bình hạnh phúc và hoan lạc vô tận... tâm hồn chúng ta sẽ vươn lên cao cả, trải rộng bao la, hiếu hòa, an vui với mọi người.

Bao lâu bị những đam mê vây bọc, chúng ta thấy con người trở nên tối tăm, trí khôn ra u mê, lương tâm mất sáng suốt để phân biệt phải trái, khiến linh hồn trở thành nô lệ cho thân xác, thân xác trở thành bày tôi cho thú tính, thú tính xúi dục làm những điều xằng bật đồi tệ, mất hết cả nhân phẩm, hạ thấp và làm ô danh cho chức vị, tuổi tác... Vua Salomon là một vị vua được Chúa ban ơn khôn ngoan nhất trần gian đến nỗi đã được Chúa khen: "Chưa hề có ai được trí khôn ngoan như ông và sau này cũng sẽ không có ai hơn ông". Thế mà chỉ vì mê sắc dục, chiều theo thú tính, vua đã trở nên đồi bại, thờ ngẫu tượng, xúc phạm tới Thiên Chúa. Như vậy, cần phải thoát ly những đam mê thú tính, những dục vọng lăng loàn, chúng ta sẽ được tự do tận hưởng hạnh phúc chân thật của Chúa.

III. HẠNH PHÚC THẬT CỦA CON CÁI CHÚA
Là con cái yêu dấu, sống theo tinh thần Chúa, chúng ta sẽ thấy mình vượt lên trên trần thế, thưởng nếm được an bình hạnh phúc và hương vị siêu nhiên Thiên Đàng ngay trên trần gian này, vì chính Chúa sẽ ban cho chúng ta được hiểu biết và cảm nghiệm được chính Chúa là Nguồn Hạnh Phúc chân thật. Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng ta thấy hạnh phúc cao cả vĩ đại đó qua lời nguyện Ngài dâng lên Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho những bậc hiền triết, khôn ngoan thông thái hiểu biết những mầu nhiệm đó, mà lại mặc khải cho những kẻ khiêm nhu bé mọn" (Mt 11:25).

Nhưng điều kiện để đạt được hạnh phúc đó, Chúa kêu gọi chúng ta: "Hãy đến với Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhu, các con sẽ được an bình tâm hồn" (Mt 11:29). Nhân từ và khiêm nhu là điều kiện Chúa đòi, để chúng ta được hưởng hạnh phúc chân thật. Nhân từ và khiêm nhu là bài học Chúa truyền chúng ta phải học nơi Chúa. Nếu bài học đó khó khăn, gương mẫu đó khó noi theo bắt chước thì Chúa mới kêu gọi chúng ta: "Hãy đến với Cha, hỡi các con là những kẻ gánh vác nặng nề, Cha sẽ bổ sức cho các con. Các con hãy mang lấy ách của Cha, hãy học cùng Cha vì Cha nhân từ và khiêm nhu thành tâm, rồi các con sẽ chiếm được sự an bình chân thật trong tâm hồn; vì ách của Cha thì êm ái và gánh của Cha thì nhẹ nhàng" (Mt 11:28-30). Nếu chúng ta biết học nơi Chúa bài học khiêm nhu và sống theo mẫu gương khiêm nhu của Chúa, chúng ta sẽ được nếm hưởng nguồn an bình hạnh phúc ngay trên trần gian này, và còn được sự sống đời đời trong hạnh phúc vĩnh cửu.

KẾT LUẬN
Xin Mẹ giúp chúng con biết học nơi Chúa bài học khiêm nhu và sống theo tinh thần khiêm nhu của Chúa như Mẹ, để Chúa cũng được hài lòng với chúng con như đã hài lòng với Mẹ, và được cùng Mẹ tận hưởng Chúa là chính nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu.

CHA ĐÃ MẶC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN
Mt 11, 25 - 30
L. M. Gioan Trần Khả

"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những ngưòi hiền triết khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn."

Một nguời giầu kia luôn luôn đầy nỗi lo lắng. Tuy ông có tất cả mọi cái mà những nguời trên thế gian này muốn có, lòng của ông vẫn không đuợc vui. Ngược lại, ông có một nguời đầy tớ biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Một hôm, khi nguời đầy tớ này thấy chủ mình qúa lo lắng buồn rầu tuởng chừng chết đi được, anh liền đến nói với ông chủ, "Thưa ông, có phải Thiên Chúa đã là người cai quản cái thế giới này trước khi ông được sinh ra không ạ?"

"Đúng như thế!" Ông chủ đáp.
Nguời đầy tớ lại hỏi tiếp, "Thưa ông, có phải chính Thiên Chúa sẽ tiếp tục cai quản thế giới này sau khi ông qua đi không ạ?"
Ông chủ lại trả lời, "Đúng như thế!"
Người đầy tớ hỏi lại, "Như vậy không lẽ không thể để cho Thiên Chúa cai quản cái thế giới này trong khi ông đang sống hay sao?" (Vaswani, "The Good You Do Return", 58).
Thánh Matthêu liệt kê thứ tự lời của Đức Giêsu trong bài phúc âm:

Ngợi khen Thiên Chúa Cha (25-26).
Nhận diện danh tánh cuả Đức Giêsu (27).
Lời kêu mời đến với Đức Giêsu (28-30).

 

Ngợi Khen Thiên Chúa Cha
Bắt đầu bằng công thức cầu nguyện theo truyền thống của Do Thái giáo, Đức Giêsu ca ngợi Thiên Chúa Cha vì Ngài đã không tỏ lộ chân lý cho những nguời thông thái học cao hiểu rộng, nhưng cho những kẻ bé mọn, đơn sơ. Chính những nguời bình dân, bé mọn, đơn sơ, thiếu học thức lại là những nguời đã theo Đức Giêsu ngày này qua ngày khác để nghe những lời giảng dạy của Ngài. Họ đã nhận biết Đức Giêsu là ai để rồi đặt niềm tin tuởng nơi Ngài. Còn những nguời thông thái như Pharisiêu và các luật sỹ thì lại ngày đêm lo lắng bày mưu tìm kế bắt bẻ Đức Giêsu và tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng. Họ đã dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian, và kết qủa là không biết Đức Giêsu là ai. Nguời đầy tớ đơn sơ và khiêm tốn trong câu truyện trên đây đã dạy cho ông chủ của anh một bài học thật đáng gía giống như tinh thần của lời Chúa. Sự giầu sang, quyền qúy khôn ngoan ở đời này không thể dạy và đưa chúng ta đến với Thiên Chúa.

Nhận diện Danh Tánh Đức Giêsu
Nhiều nguời thời nay cũng không khác gì những nguời trong thời của Đức Giêsu. Trong các giáo xứ chúng ta thâý không thiếu bóng dáng những ngừời giáo dân đơn sơ chân thành qùy gối tôn thờ trưóc Thánh Thể hoặc mân mê chuỗi mân côi lâm râm cầu kinh trưóc toà Đức Mẹ với tấm lòng thành kính tin yêu. Trong khi đó chúng ta cũng không thiếu những nguời dành thời giờ đọc sách, đọc báo và tìm những lý lẽ để bắt bẻ đạo lý của Giáo Hội. Có những nguời đã cho mình là khôn ngoan hiểu biết, bận rộn trích dẫn kinh thánh cách sai lạc, thâu băng, viết thư để bài bác bôi nhọ những lời giảng dạy của các linh mục. Họ đã quên không dành thời giờ để tạo cho mình một lối sống gần gũi với Thiên Chúa và tha nhân. Gần đây nhất, là trong khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II và các Hồng Y Hoa Kỳ hội họp để tìm ra giải pháp đối phó với vấn đề tội phạm lạm dụng tình dục đối với trẻ vị thành niên của một số linh mục theo tinh thần của Lời Chúa, thì thay vì xây dựng thêm, nhiều nguời lại tìm mọi lý lẽ để bài bác, phê bình chỉ trích tinh thần phục vụ cuả các vị lãnh đạo trong Giáo Hội Công Giáo. Họ cho rằng các ngài tiếp tục bưng bít và bao che sự xấu xa. Nhiều nguời đã về hùa với báo chí để mạnh lời chỉ trích hàng linh mục và coi như lối sống độc thân của hàng linh mục Công Giáo là lỗi thời. Nhiều nguời đã hiểu lầm cho là tại vì Giáo Hội đòi buộc các linh mục sống độc thân cho nên mới gây nên những tội trạng xúc phạm tới trẻ em như thế. Nguời ta đã không hiểu được lời của Đức Giêsu, "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. Qủa vậy, có những nguời không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những nguời không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những nguời tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu" (Mt 19:11-12). Nguời ta đã quên đi tinh thần tha thứ, nhân từ và thương yêu để rồi nặng lời chỉ trích Giáo Hội và không còn tình thương xót khi lên án những nguời đã phạm tội. Nguời ta đã không hiểu rằng Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi nguời công chính, nhưng là để kêu gọi những nguời tội lỗi biết ăn năn xám hối. Ngài đến để cứu chữa những nguời yếu đau bệnh tật. Cũng chính vì tinh thần của Đức Giêsu mà nhiều nguời trẻ thay vì muốn tiến thân làm giầu ở xã hội, đã dấn thân dâng hiến đời mình trong đời sống tu trì để phục vụ tha nhân, chăm lo cho những nguời yếu đau bệnh tật, và thăm hỏi những tội phạm trong các nhà giam. Lời cuả Đức Giêsu hôm nay lại là một thách đố cho chúng ta luợng định xem mình thuộc hạng nguời nào? Khôn ngoan thông thái, hay khiêm nhường bé mọn? Thực sự hiểu lời Chúa hay không hiểu lời Chúa? Biết Thiên Chúa hay không biết Thiên Chúa?

Đến Với Đức Giêsu
Để hiểu đưọc lời Chúa và biết Thiên Chúa, phuơng tiện duy nhất là đến với Đức Giêsu. Không ai biết đưọc Thiên Chúa Cha trừ ra Đức Giêsu, và những nguời được Đức Giêsu chỉ dạy cho. Báo chí và các nhà bình luận muốn nói gì thì nói, nhưng chúng ta chỉ có thể hiểu biết Thiên Chúa qua Tin Mừng của Đức Giêsu và các lời giảng dạy, giáo huấn của Giáo Hội mà thôi. Thêm nữa có thể vì nghe biết về tội lỗi của một số linh mục và cả giám mục xẩy ra trong Giáo Hội làm cho chúng ta phần nào cảm thấy mệt mỏi, buồn nản và chán chường. Đây cũng là lý do và là thời điểm để chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Đức Giêsu, "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các nguơi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhưòng trong lòng, và tâm hồn các nguơi sẽ gặp được bình an" (Mt 11:28-30). Ách của Đức Giêsu là ách của tinh thần hiền lành và khiêm tốn, chứ không phải ách của tôị lỗi, của thù hận, của nguyền rủa và lên án.

CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN2
Mt 11, 25 - 30
John Nguyễn

1. Giải thích một vài từ ngữ khó hiểu trong bài Tin Mừng
Đức Giê-su tạ ơn Chúa Cha vì Ngài "đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Trong câu Kinh Thánh này, có ba điều ta cần tìm hiểu: (a) "Những bậc khôn ngoan thông thái" là những ai? (b) "Những người bé mọn" là những ai? (c) "Biết những điều này" là biết những gì?

a) "Những bậc khôn ngoan thông thái": Không nên hiểu từ ngữ này theo nghĩa đen. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, nó có nghĩa là những người tự cho mình là khôn ngoan thông thái, là hơn người, là vĩ đại, những người thích tự đề cao mình, thích được coi là quan trọng. Nói chung nó ám chỉ những người coi "cái tôi" của mình quá lớn, muốn "cái tôi" của mình là trung tâm của vũ trụ, được mọi người coi trọng, qui phục, muốn ý kiến và ý muốn của mình được mọi người luôn tôn trọng, chấp hành. Từ khuynh hướng "qui kỷ" ấy, họ dễ trở nên coi thường và khinh chê người khác. Nhiều khi tệ hơn nữa, họ muốn đạp trên đầu trên cổ người khác để tiến lên, sẵn sàng bắt người khác phải hy sinh cho mình.

b) "Những người bé mọn": Từ ngữ này cũng không nên hiểu theo nghĩa đen là những kẻ nghèo, còn nhỏ tuổi, thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Nhiều người tuy nhỏ bé trong xã hội, nhưng lại rất cao ngạo và coi "cái tôi" của mình to lớn không kém gì "nhưng người khôn ngoan thông thái" kể trên. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, "những người bé mọn" ám chỉ những người tự coi mình là nhỏ bé, coi "cái tôi" của mình không là gì cả, không đáng kể, không khao khát được mọi người quan tâm hay chú ý tới mình, không coi ý kiến hay ý riêng mình là quan trọng. Đó là những người sống tinh thần tự hủy theo gương Đức Giê-su (x. Pl 2,6-8), biết "lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình, không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác" (Pl 2,3-4), sẵn sàng chịu thiệt thòi mất mát vì yêu thương tha nhân.

Muốn biết ta thuộc hạng người nào, hãy xét xem phản ứng của ta thế nào khi ta bị xúc phạm, bị chạm tự ái, bị trái ý. Nếu ta tỏ ra bực bội, tức tối, có phản ứng mạnh, đồng thời cảm thấy đau khổ, muốn trả thù, muốn làm to chuyện, đó là dấu chứng ta thuộc hạng người trước, là hạng coi "cái tôi" của mình quá lớn. Trái lại, nếu ta cảm thấy đó là chuyện bình thường, chuyện nhỏ, không làm mình khó chịu, bực tức hay đau khổ, thì ta thuộc hạng người sau.

c) "Biết những điều này" là biết những gì? Chữ "biết" trong Kinh Thánh thường có nghĩa là cảm nghiệm chứ không chỉ là có kiến thức hay hiểu biết xuông. Người ăn trái táo thì có cảm nghiệm về mùi vị của trái táo, khác với người được học hỏi về trái táo một cách tỉ mỉ, khoa học, nhưng chưa hề được cầm trái táo trong tay mà ăn. "Những điều này" trong ngữ cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là những bí nhiệm về Thiên Chúa, về Chân Lý Tối Hậu. "Biết những điều này" là cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếm được sự ngọt ngào êm dịu của Thiên Chúa, nhờ đó cảm thấy hạnh phúc, tràn đầy sự sống và sức mạnh của Thiên Chúa.

2. "Những người bé mọn" dễ cảm nghiệm về Thiên Chúa

"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8). Vì là tình yêu, nên Ngài sẵn sàng tự hủy, hy sinh, phục vụ, quên mình, vì thế, Ngài mới chính là "Người Bé Mọn" tuyệt hảo nhất, là gương mẫu tuyệt vời cho tất cả "những người bé mọn". Vì "những người bé mọn" của Tin Mừng giống Thiên Chúa ở điểm căn bản này là sự yêu thương, nên họ hiểu Ngài và cảm nghiệm được Ngài dễ dàng hơn ai hết theo định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Chính Ngài cũng dễ dàng tỏ mình ra cho hạng người này nhiều hơn ai hết. Các vị thánh được Thiên Chúa tỏ mình ra đều là những người sống tinh thần yêu thương hay tinh thần "bé mọn" hơn ai hết.

3. Tính chất kỳ diệu và nghịch lý của "cái tôi"

"Cái tôi" là một hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người. Nó chính là bản thân ta, là cái ta yêu quí nhất trên đời. Nhưng vì chúng ta được tạo dựng nên giống Thiên Chúa là tình yêu, nên "cái tôi" ấy chỉ lớn mạnh, chỉ trưởng thành, chỉ đạt được giá trị hoàn hảo khi nó thật sự yêu thương, nghĩa là trở nên tình yêu như Thiên Chúa. Mà yêu thương chính là ra khỏi bản thân để hướng đến và sống cho một đối tượng khác. Điều đó đòi hỏi ta phải quên mình, từ bỏ mình, hy sinh chính mình, để chỉ lo cho hạnh phúc và lợi ích của đối tượng ta yêu. Vì thế, càng tự coi mình là nhỏ bé, là không quan trọng để coi đối tượng mình yêu thương là quan trọng, là lớn lao, thì càng thực hiện được khả năng yêu thương. Và như thế là thực hiện được chính bản thân mình, là làm cho "cái tôi" của mình trở nên cao cả, vĩ đại.

Do đó, có một nghịch lý kỳ diệu: ta càng quên "cái tôi" của mình đi, càng làm nó nhỏ bé lại, thì nó lại càng trở nên có giá trị và cao cả. Ngược lại, càng quan trọng hóa nó, càng tự đề cao nó, càng làm cho nó phình lớn, thì càng làm cho nó kém giá trị, càng làm nó nhỏ bé đi trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Sự nghịch lý này đã được thánh Phan-xi-cô Khó Khăn cảm nghiệm: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời" (Kinh Hòa Bình).

Đối với việc cảm nghiệm Thiên Chúa cũng có sự nghịch lý đó. Sự nghịch lý đó được thánh Gio-an Tẩy giả nói đến: "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi" (Ga 3,30). Nghĩa là muốn Ngài lớn lên ở trong tôi, thì tôi phải nhỏ đi; hay nếu tôi tự làm cho mình nhỏ bé lại thì Ngài sẽ tự động lớn lên trong tôi. Còn nếu tôi làm cho "cái tôi" của mình phình to ra, thì Ngài sẽ tự động nhỏ lại trong tôi. Ngài có lớn lên trong tôi, tôi mới cảm nghiệm được Ngài, mới hiểu được Ngài, mới cảm nhận được những chân lý của Ngài, mới hấp thụ được sự khôn ngoan của Ngài. Đó chính là ý nghĩa của câu: Thiên Chúa "giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Thực ra Thiên Chúa chẳng muốn giấu gì về Ngài, nhưng những kẻ coi "cái tôi" của mình quá lớn đã tự bịt mắt mình lại trước những chân lý hay sự khôn ngoan của Thiên Chúa, để chỉ nhìn thấy những "giả lý" hay sự khôn ngoan của thế gian.

4. "Hãy mang lấy ách của tôi", vì "ách tôi êm ái..."

Khi ta coi "cái tôi" của mình là không quan trọng, là thấp kém, ta sẽ cảm thấy mình có vẻ như bị thiệt thòi, bị mất mát đủ thứ, và như bị quàng vào cổ mình một cái ách. Nhưng ách ấy chính là ách của Đức Giê-su, là thứ ách mà chính Ngài đã mang lấy suốt cuộc đời Ngài. Đã là ách thì khi mang vào tất nhiên sẽ cảm thấy nặng và khó chịu. Nhưng không có ách nào nhẹ nhàng và êm ái cho bằng ách của Ngài.

Thật vậy, khi một người coi nhẹ "cái tôi" của mình, không coi nó là quan trọng, tự nhiên người ấy sẽ thấy cuộc sống trở nên rất nhẹ nhàng: vì không cảm thấy bị chạm tự ái, vì không hề tức tối hay đau khổ khi bị xúc phạm, vì sẵn sàng tha thứ không chấp chiếm ai. Nhờ thế, cuộc sống giữa mình với tha nhân không còn vấn đề gì đáng mình phải buồn phiền đau khổ.

Thử đưa ra một trường hợp cụ thể. Giả như có ai đó làm thiệt hại hay xúc phạm đến ta, đó là một sự thiệt hại khách quan, không do ta gây ra. Nếu ta coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ bực tức buồn phiền và tâm ta sẽ đau khổ. Thế là ta đã tự mình làm cho mình đau khổ và thiệt hại thêm. Nếu ta cứ nghĩ đến chuyện bị xúc phạm đó, ta sẽ đau khổ hoài, và rất có thể vì thế ta tự làm cho mình mắc một chứng bệnh nan y nào đó. Như thế, sự thiệt hại do chính ta tự gây ra cho mình do sự bực tức còn lớn hơn sự thiệt hại ban đầu do người khác gây cho ta. - Nhưng nếu ta không coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ tha thứ ngay cho người xúc phạm hay làm ta thiệt hại, rồi quên ngay đi. Như thế ta chỉ bị sự thiệt hại ban đầu do người khác gây ra mà thôi. Điều đó khó mà tránh được trong cuộc sống chung với mọi người. Nếu ta coi thật nhẹ "cái tôi", ta sẽ thấy sự xúc phạm hay thiệt hại chẳng đáng kể, tâm hồn ta lập tức được bình an, nhẹ nhàng, vui tươi. Như thế chẳng phải ta đã hành động một cách khôn ngoan hơn rất nhiều sao?

Cách sau chính là cách của Đức Giê-su, là "mang lấy ách" của Ngài. Ách đó là ách êm ái và nhẹ nhàng nhất mà người khôn ngoan tất nhiên sẽ chọn khi đứng trước hai thứ ách: ách của Ngài và ách của chính mình. Không có ách nào làm ta mệt mỏi và nặng nề cho bằng cái ách do chính "cái tôi phình to" của mình tạo ra, nó chính là nguồn gốc phát sinh nên muôn vàn tội lỗi và đau khổ ở trần gian này. Vì thế, Đức Giê-su khuyên ta: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề (vì "cái tôi" của mình), hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi (là cái ách của tình yêu, không có "cái tôi" nặng nề trong ấy), và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (nghĩa là tính coi nhẹ "cái tôi" của mình). Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng".

CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Tình Yêu, xin cho con trở nên tình yêu giống như Cha, để con trở nên hình ảnh trung thực của Cha. Để được như thế, xin cho con biết coi nhẹ "cái tôi" của con, nhờ đó đời sống con trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp và hạnh phúc hơn bội phần. Amen.

HÃY HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Mt 11, 25 - 30
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Hiền lành và khiêm nhượng là đức tính tối quan trọng của con người. Trên thế gian ai cũng thích người đơn sơ, hiền lành và từ tốn, hơn là một người cao ngạo, tự tôn, cái gì cũng cho mình hơn người, cái gì cũng cho là mình biết, mình giỏi khinh khi người khác. Người kiêu căng không biết chấp nhận giới hạn của mình, không biết nhận ra nhược điểm của mình, trái lại luôn lên mặt dậy đời, luôn muốn răn đe người khác. Tự cao, tự đại cũng là nguyên nhân làm cho con người không nhận ra ơn Chúa:" Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường " ( Lc 1, 51-52 ).

Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nhưng lại hiền lành và từ tốn cỡi trên mình lừa, Ngài đến ban sự an bình cho mọi dân, mọi nước.

I. HÃY HỌC CÙNG CHÚA :" HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG .
Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa,được ngôn sứ Da-ca-ri-a trong bài đọc 1 loan báo Ngài là vị Vua chính trực, Đấng toàn thắng, oai phong lẫm liệt, nhưng lại rất khiêm tốn ngồi trên mình lừa. Đây là Đức Vua đã quét sạch chiến xa khỏi Êpraim, chiến mã khỏi Giêrusalem, bẻ tan cung nỏ của chiến tranh, đem lại độc lập và hòa bình cho muôn dân. Thiên Chúa, Đức Vua toàn thắng, thống trị là hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, ngày lễ lá đã tiến vài Giêrusalem trong bầu khí hân hoan, vui mừng, với muôn dân tung hô, với muôn vàn trẻ nhỏ Do Thái, tay cầm cành lá vạn tuế tung hô Vua Giêsu, Đấng có quyền phép vô cùng, nhưng đã khiêm nhu, hiền lành đi vào con đường thập giá, con đường chông gai, đau khổ để mang lại ơn cứu độ cho muôn dân.

Chúa đã im lặng, một sự nín thinh hầu như khó hiểu trước mặt những kẻ nộp, bắt và tra khảo Ngài, nhưng Ngài đã chiến thắng tử thần, chiến thắng sự dữ để đem lại niềm vui, sự hạnh phúc và cõi sống đời đòi cho những ai tin Ngài vì Ngài đã thắng thế gian "...Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian " ( Ga 16, 33 ). Chúa Giêsu đã chiến thắng sức mạnh của sự dữ, của tà thần, của danh vọng, tiền tài vật chất. Ngài không bao giờ thỏa hiệp để mong được vinh thân phì gia, được dễ dãi, được may mắn, được lợi nhuận theo kiểu người đời. Chúa chấp nhận sống nghèo, Ngài can đảm vượt lên trên cách đánh giá của người đời, Ngài sống giữa người nghèo, đồng bàn với người tội lỗi, liên hệ, làm quen với người thu thuế, giúp đỡ những kẻ bị xã hội ruồng bỏ, xa lánh, tìm kiếm những con chiên lạc vv...Hình ảnh của Chúa Giêsu đã được nhiều người có lòng tin họa lại. Một mẹ Têrêsa Calcutta nong nả lo cho người hấp hối, săn sóc kẻ bị bỏ rơi. Một Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, tuy tuổi già sức yếu vẫn luôn đi đây đi đó, khắp thế giới kêu gọi sự hiệp nhất, yêu thương và hòa bình. Một Phanxicô sống tuyệt cùng sự khó nghèo. Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sống cái cốt lõi của tình yêu và còn biết bao vị thánh khác đã sống cung cách của Chúa Giêsu.

Một Gandhi tuy không phải Kitô hữu, nhưng đã sống gần kề Tin Mừng. Một Martin Luther King đã ngã gục về một chí hướng, một niềm hy vọng và vì một niềm tin ...

Tất cả, những vị thánh, những vĩ nhân và những người Kitô hữu chân chính đều được mời gọi sống yêu thương, sống với trái tim cháy lửa khiêm nhượng và hiền lành của Chúa Giêsu vì " Người khiêm tốn là người sở hữu rất nhiều, mặc dù ra như chẳng có gì ".

II. CHÚA YÊU THƯƠNG KẺ BÉ MỌN :
Chúa Giêsu đã sinh ra, lớn lên trong cảnh khó khăn nghèo khó. Ngài đã đến như một kẻ nghèo, sống giữa người nghèo, thâu nạp các môn đệ đầu tiên cũng đủ mọi thành phần xã hội, đặc biệt những người trong lớp lao động nghèo nàn. Chúa và các môn đệ của Ngài loan truyền Tin Mừng cho những người nghèo khó, cho lớp dân cùng đinh, bơ vơ vất vưởng. Nuớc trời, Chúa Giêsu rao giảng, loan báo mở ra cho những người nghèo : nghèo về vật chất, nghèo về tinh thần nghĩa là những kẻ khiếm khuyết, tội lỗi, cần nhận ơn tha thứ. Chính vì vậy, Chúa Giêsu đã yêu thương các trẻ nhỏ vì các em có tâm hồn đơn sơ, hiền từ. Suốt cuộc đời của Chúa và trong cuộc hành trình tiến về núi Sọ để thực hiện việc cứu rỗi nhân loại. Những người đi theo Chúa là những người nghèo hèn, những bà phụ nữ tội lỗi được Chúa tha thứ. Chúa đã giải thoát và đem một người trộm cướp sám hối vào nước trời :" Hôm nay ngươi sẽ lên Thiên Đàng với Ta" ( Lc 23, 43 ).

Khi sống lại Chúa phục sinh đã hiện ra đầu tiên với người phụ nữ Mađalêna tội lỗi tầy đình mà Ngài đã tha thứ vì người này đã yêu Chúa nhiều, Ngài đã trao trao sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho bà đầu tiên. Chúa mời gọi con người phải có tấm lòng yêu thương vì ách và gánh của Ngài là sự yêu thương, có yêu thương con người mới biết chia sẻ và lưu tâm tới những người khác. Kiêu ngạo không thể gần gũi người khác được vì người tự cao tự mãn chỉ ích kỷ, bo bo cho mình và không biết mở ra cho người khác được. Chúa dậy chúng ta rằng: nhân loại quả lắm người tài, lắm người thông thái, giỏi giang, hiền triết, minh mẫn, thông minh biết nhiều chuyện, biết nhiều điều bí ẩn, huyền bí. Nhân loại đã lên cung trăng, lên hỏa tinh, con người đã tốn biết bao nhiêu tiền của để ngồi du lịch không trung, nhưng tất cả vẫn chỉ là con người.

Giáo Hội cũng nẩy sinh biết bao nhà thông thái, lỗi lạc, nhưng tất cả vẫn chỉ dừng lại ở phạm vi nhân loại, con người. Ngôn ngữ Chúa muốn con người diễn tả là ngôn ngữ của tình yêu, vì chính Thiên Chúa là Tình yêu, nên chỉ ai sống yêu thương, mới có khả năng nhận biết Chúa ( 1 Ga 4, 7- 8 ). Biết Chúa mới chia sẻ cho người khác được và mới có tấm lòng loan báo Tin Mừng. Chỉ với trái tim yêu thương, con người mới nên đơn sơ, hiền từ và khiêm nhượng. Thánh Phaolô quả thực đã có lý khi nói:" Tình yêu Chúa thúc bách Tôi...".Quả thực, con người chỉ có thể hiểu được mầu nhiệm nước trời khi họ không cậy dựa vào sự thông thái, khôn ngoan của loài người mà phải có Chúa Thánh Thần hướng dẫn, soi sáng và phải ngang qua Chúa Giêsu, con người mới có thể đi vào sự thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa và được cứu độ :" Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng là mạckhải cho những kẻ bé mọn "( Mt 11, 25 ).

Xin Chúa mở tâm hồn chúng con biết lắng nghe Lời Chúa với con tim rộng mở,với tâm hồn khiêm tốn và sẵn sàng để Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn. Xin Chúa cho chúng con biết sống hiền lành và khiêm nhượng như Chúa
.

Nguồn vietcatholic.org

2339    05-07-2014 20:33:43