Sidebar

Thứ Tư
01.05.2024

Chúa Nhật Lễ Lá Năm C

  1. Lòng Dạ Con Người
  2. Chúa Nhật Lễ Lá
  3. Chúa Nhật Lễ Lá
  4. Cuộc Khổ Nạn Của Đức Giêsu 
  5. Chúa Nhật Lễ Lá
  6. Vua Tình Yêu
  7. Bước Theo Chúa Kitô 
  8. Qua Đau Khổ Vào Trong Vinh Quang
  9. Yêu Cho Đến Cùng
  10. Hosanna, Vạn Tuế
  11. Cuộc Khổ Nạn Hồng Phúc Của Chúa Giêsu
  12. Đồng Hành Với Chúa Vào Giêrusalem
  13. Chiêm Ngắm Đường Thương Khó Chúa
  14. Cái Chết Của Tình Yêu
  15. Thiên Chúa Là Tình Yêu Phục Vụ
  16. Chúa Nhật Lễ Lá
  17. Đức Giêsu Vào Thành Giêrusalem
  18. Cuộc Khổ Nạn Của Đức Giê Su Theo Thánh Luca

LÒNG DẠ CON NGƯỜI
Lc 19,28-40.

Với lễ lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của năm phụng vụ gọi là tuần thánh. Bài thương khó hôm nay có rất nhiều ý nghĩa, con xin gợi lên một vài chi tiết để thấy được lòng dạ của con người khi đối diện với thập giá Đức Kitô.

Trước hết là đám đông dân chúng. Lúc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, dân chúng đã vui mừng nghênh đón Chúa  như một vị vua cao sang, tay cầm lá tung hô: "vạn tuế con vua David", có kẻ trải áo xuống đường để bày tỏ niềm hân hoan. Nhưng chỉ vài hôm sau, cũng những con người đó lại la lói trước dinh Philatô: "đóng đinh nó vào thập giá". Vì họ nhận thấy vị vua Giêsu này không làm vua theo cách họ muốn, không thỏa mãn nhu cầu của họ nên đã loại trừ Ngài.

Các môn đệ của Chúa thì sao?. Ba năm theo Thầy, được Thầy dạy dỗ, chứng kiến bao nhiêu phép lạ Thầy làm. Cách đây vài hôm ai cũng hùng hồn tuyên bố: "chúng ta cùng lên Giêrusalem để chết với Thầy". Vậy mà giờ đây, trong những giờ phút khổ hình của Thầy không còn ai bên cạnh. Giuđa vì 30 đồng bạc nhẫn tâm bán Thầy. Phêrô, kẻ được Thầy tin tưởng nhất lại chối bỏ Thầy đến 3 lần,  những môn đệ khác cũng không thấy bóng dáng đâu.

Chỉ trong khoảng thời gian không đầy 1 tuần mà chúng ta chứng kiến bao cảnh thay lòng đổi dạ của con người đối với Chúa Giêsu. Vì sợ thánh giá, sợ đau khổ, sợ mất quyền lợi mà con người đã đối xự tệ bạc với Chúa.

Lòng dạ của con người là thế nhưng Chúa Giêsu vẫn luôn trung thành với tình yêu. Chúa chấp nhận vác lấy tất cả sự phụ bạc của con người, sự phản bội của Giuđa, sự yếu hèn của Phêrô mà không một lời trách mắn. Trên thập giá, khi chỉ còn lại chút hơi mọn Người đã kêu xin Chúa Cha hãy tha cho tội cho những kẻ làm khổ Người. Đây là một tình yêu cho đến tận cùng, tha thứ cho tới chết.

Khi nghe bài thương khó, có lẽ chúng ta không khỏi đau lòng, vì trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta cũng cảm thấy mình đang có mặt trong đám đông chối bỏ Chúa. Chúng ta sẽ dễ dàng theo Chúa, tôn xưng Ngài là vua là Chúa cuộc đời mình khi chúng ta ở trong nhà thờ, trong hoàn cảnh thuận lợi: gia đình hạnh phúc, tiền bạc đầy đủ, sức khỏe dồi dào. Thế nhưng khi cuộc đời gặp thử thách, bệnh tật, nghèo khổ, hay vì phải mất một số quyền lợi khi xưng nhận mình là người có đạo thì việc trung thành với Chúa cũng không phải là chuyện dễ dàng chút nào.

Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta rằng: vị vua Giêsu chúng ta đang theo đó là vị vua của hòa bình, của yêu thương và tha thứ. Để được vào vương quốc của Ngài, chúng ta phải đi trên con đường Ngài đã đi qua: con đường thập giá, con đường của tình yêu và tha thứ. Chỉ ai dám can đảm dấn bước trên con đường đó thì mới chiếm được sự sống vĩnh cửu mà Ngài hứa ban.

Chúa Nhật Lễ Lá (CGS Vào Thành)
Lc 19,28-40.

Chúng ta vừa nghe bài Phúc Âm về việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem trong tiếng hoan hô tưng bừng của các môn đệ và dân chúng Do Thái. Chúng ta xem việc Chúa Giêsu tiến vào thành bằng phương tiện gì? Việc này có ý nghĩa như thế nào? Bây giờ các em thiếu nhi cho thầy biết:

1. Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem bằng phương tiện gì? Con lừa.

2. Việc Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem có ý nghĩa gì? Nói lên Ngài là vua.

Thầy cũng xin nói cho các em biết vài chi tiết về con lừa: trong đất nước Do Thái thời đó, con lừa là con vật làm phương tiện cho đức vua, mà đặc biệt trong ngày nhậm chức của đức vua. Các em cũng thấy vua Salômon cũng cưỡi lừa trong ngày lên ngôi của mình.

Hôm nay Chúa Giêsu tiến vào thành với tư cách là một vị vua thì rất đúng, vì Ngài là vua là Chúa của cả vũ trụ kia mà!

3. Nhưng thầy xin hỏi tiếp các em: vua Giêsu có điểm gì khác biệt so với các vua khác? Thưa Ngài là vua công chính, vua hòa bình, vị vua rất khiêm nhu, hiền từ.

4. Các môn đệ và những người xung quanh đã làm gì khi Chúa Giêsu trên lưng lừa tiến vào thành? Thưa họ dùng những cành lá tung hô. Họ hô lên: "Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời"!

Đúng rồi, những cử chỉ của dân chúng quá đỗi vui mừng khi thấy Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Đa phần dân chúng đều trông mong Đức Giêsu sẽ làm vua để cải tổ đất nước Do Thái. Nhưng thực chất, cử chỉ tiến vào thành của Đức Giêsu là rất can đảm, vì Ngài thực hiện trọn vẹn thánh ý Chúa Cha,tiến vào để gánh lấy tội của con người, tiến vào thành để chịu chết. Chúng ta cũng biết, sự hiềm khích của các Biệt Phái và Pharisêu đối với Chúa Giêsu đã đến mức cao độ. Trong khoảng thời gian này, trong kinh thành Giêrusalem đã có lệnh lùng bắt Đức Giêsu như một tên tội phạm. Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem như một vị vua khiêm nhu và luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha cho dù biết mình phải chết tủi nhục.

Hôm nay, chúng ta nhìn vào sự can đảm, sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết của Chúa Giêsu mà kiểm điểm lại đời sống đức tin của mình. Chúng ta là những người có đạo, nhưng khi gặp thử thách gian truân, chúng ta có dám tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa không; Hay chúng ta cũng xử sự như những người không có đức tin? Còn các em thiếu nhi, các em có hãnh diện về niềm tin của mình vào Chúa cho các bạn cùng lớp, cùng trườngvới mình chưa? Điển hình khivào quán ăn nơi công cộng, các em có dám làm dấu Thánh Giá và đọc kinh tạ ơn Chúa trước khi ăn chưa? Hay các em có dám nói về đạo khi được các bạn thắc mắc chưa? Thầy thiết tưởng, những cử chỉ nhỏ bé như vậy sẽ nuôi trồng đời sống đức tin của mình mỗi ngày một trưởng thành hơn. Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho chúng con lòng can đảm, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Amen.

 

CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Lc 19, 28-40

Rambrandt là một danh hoạ người Ý nổi tiếng nhất của TK 17. Một trong những bức hoạ nổi tiếng nhất của ông là bức tranh có hình ba cây thập giá. Khi nhìn vào bức tranh ai cũng bị thu hút ngay: giữa 2 cây thập giá của 2 tên trộm là thập giá của Chúa Giêsu. Dưới cây thập giá có cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Khi nhìn kỷ hơn, giữa đám đông đằng đằng sát khí kia người ta thấy có một gương mặt quen quen, đó chính là gương mặt của danh hoạ Rambrandt. Qua bức tranh, tác giả như muốn nói rằng: không có ai mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu ...

Hôm nay là Chúa Nhật lễ lá, Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Trong bài thương khó mà vừa nghe, chúng ta thấy:

  • Sự thâm độc của những nhà lãnh đạo Do Thái, họ đã tìm mọi cách để giết Chúa Giêsu.
  • Sự hèn nhát của các môn đệ thân yêu: tất cả các ông đều bỏ chạy trong lúc Chúa Giêsu cần đến các ông nhiều nhất.
  • Hôm nay cũng tái diễn sự tàn nhẫn của những người lính, họ đánh đập Chúa Giêsu một cách dã man.
  • Cũng thế, đám đông dân chúng trước đó đã nhiệt liệt ủng hộ Chúa Giêsu: họ chặt lá thay cờ để tung hô rước Chúa, họ lấy áo của ình trải xuống đường làm thảm cho Chúa đi. Tất cả cùng tung hô: "Hoan hô con vua Davit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến". Họ xem Chúa Giêsu là vị vua của họ.

Thế mà nay, khi Chúa Giêsu bị kết án, dân chúng cũng thật đông, họ cũng hăng hái hô thật to. Nhưng lần này không phải tiếng tung hô mà là những lời kết án: "Giết nó đi, đóng đinh nó vào thập giá".

Không ai vô tội trước cái chết của Chúa Giêsu, như bức tranh của Rambrandt, khi vẽ khuôn mặt của chính mình vào trong đám đông kết án Chúa. Khi suy niệm cuộc thương khó hôm nay, chúng ta cũng thấy bóng dáng mình tham gia vào cuộc kết án và đóng đinh Chúa.

  • Chúng ta có thể là Giuđa, khi chạy theo lợi lộc trần gian mà đánh mất lương tâm của mình.
  • Chúng ta cũng có thể là Phêrô chối Chúa: trong cuộc sống thường ngày ta không dám nhận mình là người Công Giáo, không dám làm chứng cho Chúa trước những bất công xảy trong cuộc sống mà đáng lẽ chúng ta phải lên tiếng.
  • Chúng ta cũng có thể là đám đông dân chúng gào thét đòi lên án Chúa khi nói xấu, phê bình chỉ trích người khác...
  • Chúng ta cũng có thể trở nên bọn lý hình dữ tợn, hành hạ Chúa cách tàn nhẫn, khi ở trong môi trường gia đình, hay cách đối xử ác tâm của ta đối với anh chị em lối xóm.

Khi từ thập giá nhìn xuống, Chúa thấy tội lỗi của chúng ta, thấy sự xúc phạm của con người đối với Chúa. Nhưng khi nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy được tình thương của Chúa. Tình yêu của chúa thể hiện qua sự tha thứ và thứ tha không ngừng, miễn là chúng ta biết chạy đến để đón nhận tình thương tha thứ. Chính vì tình yêu mà Chúa đã chiến thắng tất cả, tha thứ tất cả.

Khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay, cách riêng trong tuần thánh này, chúng ta hãy ý thức lại tình trạng tội lỗi của mình và quyết tâm từ bỏ, vì mỗi khi chúng ta phạm tội là chúng ta kết án, đóng đinh và giết chết Chúa.

Ước mong trong tuần thánh này là dịp để mỗi người chúng ta cảm nhận rõ nhất về tình yêu, sự tha thứ của Chúa. Và qua đó sẽ là động lực giúp chúng ta vươn lên, chạy đến với Chúa để đón nhận ơn tha thứ. Chính khi đón nhận ơn tha thứ đó là lúc chúng ta nhận lãnh ơn cứu độ. Amen

CUỘC KHỔ NẠN CỦA ĐỨC GIÊSU theo thánh Luca (Lc.22&23)

Phần trình thuật về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu được coi như phần giống nhau nhất trong 4 Phúc Âm. Nhưng những dị biệt cũng không ít.

Phần riêng của Luca:
c. 13-16 :Luận án lần I của Philatô. 
c. 15-16 Giáo huấn trước lập Bí Tích Thánh Thể.
c.17 với chén rượu nho thứ I. 
c.28-30 : Phần thưởng dành cho các tông đồ.
c. 51 chữa lành lổ tai bị chém đứt.
c.61a cái nhìn của Đức Giêsu cho Phêrô.
23,2-5 : Ba lần Pilatô tuyên bố Đức Giêsu vô tội.
c. 5-12 : Đức Giêsu bị đưa ra trước Hêrôdê.
c. 27-32 : Gặp gở các phụ nữ trên đường vác thập giá.
c.34 : lời xin tha thứ.
c. 40-43 : Đối thoại với người kẻ trộm sám hối.
c. 46b : Tiếng kêu của Đấng hấp hối trích Tv 31.
Luca có riêng 35 câu ( hơn 20 câu trên miệng Đức Giêsu).

Những câu chung với Mc cũng không có cùng một trật tự. Sơ đồ trình thuật của Luca trong những nét lớn thì song song với Mc nhưng cũng có nhiều khác biệt. Có một số điểm giống Ga.

Ban đêm Đức Giêsu không được điệu đến Cai pha cũng không đến Thượng Hội Đồng.
Ba lần Pilatô muốn thả Đức Giêsu.
Đánh đòn coi như một hình phạt thay thế án tử.
Cuối cùng Pilatô nộp Đức Giêsu cho các người hữu trách do thái để thi hành bản án.

Hai nét Kitô học của Luca :
1/ Đức Giêsu thực hiện một cách bình thản chương trình của Thiên Chúa- nhấn mạnh tính cách vô tội của Người.
2/ Mời gọi nhập cuộc, dấn thân vg. Simon Cyrênê vác hộ thập giá với Đức Giêsu.

Tóm lại : cái chết của Đức Giêsu là cuộc tử đạo của người công chính là gương mẩu cho các môn đệ noi theo vg Stêphanô, Phaolô.....

Luca viết Phúc Âm thứ 3 như một đại diện cho dân ngoại cố gắng đưa dân ngoại vào chiếm một chổ đứng trong lịch sữ cứu độ. Lc 23,34 : Lời xin tha thứ là nhắm dân ngoại vì họ bị coi như người tội lỗi nhưng chỉ vì họ không biết. Nhất là Lc. 23, 40-43 giai thoại về người kẻ trộm sám hối, ăn trộm Nước trời vào những giây phút chót ( có cách nói là vào giờ thứ 25).

Luca biện minh cho dân ngoại vì ơn cứu độ cũng có cho họ và Luca cũng có một nữa là dân ngoại ( Cha là ngoại). Ngoại là ở ngoài, ngài tìm cách ghép họ vào chương trình cứu độ vì ơn cứu độ phổ quát không dành riêng cho do thái.

Đó, Người đưọc treo lên cao, trên cây sào và giương cao trên đỉnh đồi núi sọ.. Xa gần đều có thể nhìn thấy.

Như con rắn đồng, treo trên ngọn sào, giương cao trong sa mạc để ai bị rắn cắn mà nhìn lên và tin Thiên Chúa thì khỏi chết.

Mọi người là con cháu Adam đều bị con rắn xưa cắn không phân biệt do thái hay dân ngoại- điều quan trọng và trở nên bi đát- là có nhìn lên và tin hay không. Thánh Gioan nói : tin thì được sống không tin thì vẩn chết.

Đó, Người đã được treo lên, trên cây bẹo ( theo ngôn ngữ chợ nổi miền tây Nam bộ- ở chợ nổi Cái Răng hay Ngả Bảy, các ghe hàng bẹo món hàng muốn bán trên một cây sào gọi chuyên là cây bẹo,bẹo hàng). Trên đồi cao, được giương lên cao ( như Ga: khi tôi được giương lên cao, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi).

Được treo, được giương lên như cờ hiệu thúc quân. Được chứ không bị hay chịu treo vì Người tình nguyện, là Tình Yêu cứu độ. 'Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi 'trao nộp' con của mình cho thế gian để họ xử tùy ý họ.

Nhưng cái nút thắc phải mở ở đây là ' nhìn lên và tin vào'. Ai có thì được ' ơn tha thứ và hứa thiên đàng'. Còn không thèm nhìn hoặc nhìn mà chế nhạo, phỉ báng, mắng nhiết thì khác

Đức Giêsu chỉ xin ơn tha thứ ' vì họ không biết', chỉ cho kẻ không biết. Dân ngoại không biết. Luca muốn làm mảnh ghép còn thiếu cho hình ảnh ơn cứu độ dược đầy đủ.

Người được treo đó! Trên cao, ai cũng có thể nhìn xem.

Người được treo đó! cho tất cả, cho dân ngoại nữa. Ngoại không phải là vỉnh viển ở ngoài. Vào giờ chót, những giây chót muốn vào cũng còn được nhưng với điều kiện là nhìn lên và tin Thiên Chúa. Người kẻ trộm sám hối vào giờ phút chót được chấp nhận và hứa ' ngay hôm nay' có nghĩa là ngay hôm nay, ngay giờ phút nầy, giờ của sám hối và lòng tin người kẻ trộm-dân ngoại (tội lỗi) cũng được ơn tha thứ và được hưởng ơn cứu độ như mọi người dù là người kẻ trộm. Không phải là ơn cứu độ vô điều kiện. Nhưng điều kiện không nhiều, chỉ cần sám hối và tin. Nhưng không thể không có. Vì tự do thì phải như vậy.

Người được treo đó! trên cao, không giống như những người bị treo khác. Người là con chiên vô tội, là Con Thiên Chúa, là Tình Yêu, là ơn cứu độ phổ quát. Người do thái cho tới nay vẩn không sám hối, không tin thì trở thành kẻ ngoại. Người dân ngoại là tội lỗi, là kẻ trộm ( dưới mắt người do thái) nhưng giờ chót sám hối : Chúng ta chịu thế nầy là đáng kiếp. Ông nầy không có tội. Xin Ngài, khi về trong nước Ngài ( Trời) xin thương nhớ đến tôi. Ngay hôm nay (ngay sau khi sám hối) ngươi sẽ ở trên thiên đàng với tôi. Ngay hôm ấy Đức Giêsu đã ở trên thiên đàng - là Chúa vào Đấng Cứu độ -không phải đợi tới Thăng Thiên. Cũng ngay hôm nay người dân ngoại được nhận và thiên đàng'ơn cứu dộ'- không còn đợi gì nữa vì có ơn cứu độ thì trời liền mở ra- đã đợi lâu lắm rồi. Ơn cứu độ là phổ quát, là cho mọi người không phân biệt do thái hay dân ngoại chỉ có tin hay không tin. Nên ngay hôm nay Luca muốn mảnh ghép còn lại được thực hiện hoàn tất. Vì Ga : Ai tin thì được sống, không có giới hạn.

Người được treo đó! Trên cao - đủ cao -hãy nhìn lên và hãy tin thì chắc chắn 1000% được cứu, được sống đời đời ! Lạy Chúa, con thấy rồi, con tin, xin cho con được sống đờo đời với Chúa trong vinh quang Phục Sinh.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Lc 22, 14 - 23, 56

Anh chị em thân mến.

Lão Tử trong thuyết trung dung, ông có nói:
Đạo khả đạo phi thường đạo,
Danh khả danh phi thường danh.

Thật thế, những gì chúng ta nhìn thấy, những gì chúng ta chiếm hữu, nó không tồn tại lâu bền, nhưng nó sẽ bị biến mất.

Chúa Giêsu vừa cho những người thời bấy giờ nhìn thấy được cái chóng qua của vinh quang trần thế. Nhưng họ nào có nhận ra. Họ đón rước Ngài như một vị vua, tung hô vạn tuế. Các môn đệ cũng vui mừng tận hưởng vinh quang của thầy, vinh quang của người đời, vinh quang ở ngay trước mắt. Nó vụt biến đi cách nhanh chóng, những gì mà người đời ca tụng giờ đây không còn nữa. Nó được thay thế bằng những gì người đời cho là ô nhục, thất bại. Nhưng Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho việc nầy từ rất lâu, chuẩn bị cho vinh quang mà người đời không nhìn thấy, vinh quang bất diệt, vinh quang vĩnh cửu, vinh quang mà không ai có thể lấy đi được, vì vinh quang không phải do con người người ban tặng, nhưng là hồng ân và là chương trình của Thiên Chúa.

Các môn đệ muốn chiếm lấy vinh quang mà họ nhìn thấy.

Những người thời bấy giờ cũng muốn Chúa Giêsu đem vinh quang cho họ ngay trước mắt. Nhưng tất cả những gì họ mong muốn, đều không đạt kết quả. Họ không nhìn thấy được chương trình của Thiên Chúa. Thái độ của cũng thay đổi khi quyền lợi không được thỏa mãn.

Chúa Giêsu dùng tất cả mọi phương tiện để đem vinh quang đến cho con người, nếu họ nhận ra được Thánh Ý và tuân theo.

Chúng ta cũng nhận ra được một Philatô trung thực nhưng lại hèn nhát, không dám thực hiện những gì mình nhìn thấy. Ông cũng nhận ra được ánh sáng chân lý, cũng nhận ra được vinh quang đang tiềm ẩn, nhưng không thể nắm bắt được vì sự hèn nhát.

Chúng ta cũng nhận ra được một Herode muốn tìm gặp Chúa, ông đã gặp, nhưng không đạt được kết quả gì, vì không có lòng thành.

Chúng ta nhìn thấy một Phêrô biết quay trở về với tình Yêu thương vì ông đã nhận ra được Tình Yêu, qua cái nhìn đầy cảm thông.

Chúng ta cũng nhận ra được tâm tình sám hối của các môn đệ, khi nhìn thấy được những lỗi phạm của mình, để rồi biết quay trở về với tình yêu chân thật, mà nhận lấy vinh quang đã chuẩn bị cho các ông.

Chúng ta cũng chứng kiến một sự chuyển đỗi ngoạn mục của người trộm lành, khi anh ta nhận ra được vinh quang bất diệt của Thiên Chúa.

Chúng ta cũng chứng kiến một sự tha thứ cho những người lầm lỗi, để họ có thể đạt tới vinh quang đã được chúẩn bị chọ, nếu họ biết quay về với nguồn tình yêu.

Còn chúng ta. Với những điều chứng kiến, với những hồng ân chúng ta nhận được, với sự hiểu biết mà Thiên Chúa đã ban. Chúng ta có nhìn thấy vinh quang bất diệt đã được chuẩn bị, hay chúng ta cũng chỉ thấy những vinh quang nhất thời, vui mừng với nó, để rồi nó cũng từng biến mất và làm cho chúng ta hụt hẩn.

Chúng ta có được chút thành tâm như người trộm lành , dám nói lên những sự thật trong lúc cùng cực nhất. Hay chúng ta có như được Phêrô và các môn đệ, nhận ra sự yếu hèn của mình khi nhìn thấy được Tình yêu.

Chẵng lẽ, chúng ta cũng như một Philatô hèn nhát, nhìn thấy sự thật, nhìn thấy được vinh quang bất diệt, nhưng không dám với tới, vì sợ mất đi những gì đang có trong hiện tại. Hay chúng ta cũng như những người thời bấy giờ, mặc dù đã được sự tha thứ của Chúa Giêsu. Nhưng họ không hối cải, không quay trở về với Ngài vì họ chỉ nhìn thấy bản thân, cùng với những vinh quang, lợi lộc mà họ không muốn từ khước nó.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta được sáng suốt, nhìn thấy vinh quang vĩnh cửu mà Chúa đã chuẩn bị , để can đảm bước theo Chúa , tận hưởng vinh quang bất diệt.

Đạo khả đạo phi thường đạo, 
Danh khả danh phi thường danh.

VUA TÌNH YÊU
Lc 19, 28 - 40

"Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa..." (Lc 19, 38)

Câu chuyện của ngày lễ lá hôm nay tường thuật: Chúa Giêsu được đón rước vào thành Giêrusalem với tiếng hoan hô vang trời dậy đất.Tất cả những điều đó làm ta liên tưởng tới những dịp bầu cử tổng thống của các nước trên thế giới, nhất là Việt nam trước năm 75: trong ngày bầu cử, người ta hoan hô tưng bừng bao nhiêu, thì ngày tổng thống bị hạ bệ, người ta đả đảo, nói xấu bấy nhiêu. Cũng thế, ngày lễ Lá, dân chúng hoan hỉ đón rước Chúa Giêsu bao nhiêu, thì ngày thứ sáu liền sau đó, họ lại sỉ vả, phỉ báng bấy nhiêu. Trước mắt dân chúng Do Thái, Chúa Giêsu không khác gì mấy ông tổng thống, mấy ông nguyên thủ quốc gia trần thế bao nhiêu; chỉ có điều, Chúa Giêsu không tìm vinh quang trần thế. Ngược lại, mấy ông kia thì khác... Câu chuyện hôm nay muốn chúng ta suy niệm thấu đáo về đề tài này.

a. Có mấy điều trước hết cần chú thích:

Nghi thức rước lá ngày hôm này, là để kỷ niệm biến cố xưa khi Chúa vào thành Giêrusalem, cũng là để khai mạc Tuần thánh, nghi thức này đã có từ thế kỷ thứ IV tại Thánh địa Giêrusalem; các nơi khác mãi tới thế kỷ VIII và IX mới có. Qua nghi thức này cho thấy Hội thánh hiểu rõ ý nghĩa việc rước lá, không đơn thuần là việc đón rước Chúa long trọng vào thành Giêrusalem, mà còn phải có ý nghĩa khác sâu xa hơn nhiều.....

Chúa cưỡi lừa: đây là nghi thức từ thời Cựu Uớc: vua hay thủ lãnh thường dùng lừa để cưỡi, ở đây Phúc âm còn lưu ý: chọn con lừa chưa dùng vào việc gì là chỉ con vật tinh tuyền.

Chúa Giêsu chấp nhận để dân chúng hoan hô đón rước Chúa, vì chính Chúa trả lời cho người pharisêu, khi họ kêu Chúa bảo các môn đệ đừng tung hô lớn nữa; Chúa nói "nếu họ làm thinh thì sỏi đá sẽ la lên". Điều này chắc chắn làm chúng ta kinh ngạc. Dù vậy câu trả lời sẽ rất sáng tỏ nếu chúng chịu theo dõi từ đầu cho đến hết cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, thì ta sẽ hiểu ngay. Điều Người tìm kiếm không phải là vinh quang trần thế.

b. Có thể đây là cuộc biến hình thứ hai của Đức Kitô; tuy nhiên vinh quang mà dân thành Giêrusalem dành cho Chúa không mấy chốc sẽ vụt tắt, vì họ đón rước Người theo ý họ chứ không vì mộ mến và làm theo ý của Con Thiên Chúa, Đấng Cứu thế...

Trước hết, ta thấy Chúa Giêsu muốn dân chúng Do thái đón rước mình như một vị Vua, vị Vua lạ lùng, bí nhiệm nhất trong nhân loại, nhưng lại không phải là một vì Vua trần gian theo nghĩa thường tình. Người là vị Vua hòa bình, Vua công chính, là Đấng Cứu tinh, là Đấng Thiên sai. Chúa Giêsu muốn mọi người hiểu theo nghĩa này. Thực ra không có mấy người Do Thái nào hiểu được như vậy. Rồi đến ngày thứ sáu, Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn với lòng bình thản và độ lượng thẳm sâu. Trước sự yếu đuối và phản bội của các Tông đồ, Người bao dung, khiêm tốn biết bao. Trước bạo quyền, Người thinh lặng. Trước kẻ thù, Người khoan nhượng và tha thứ. Người đến với địa vị và uy quyền của một Đấng Cứu thế, giải thoát con người không phải ách nô lệ La mã, mà là ách tội lỗi, một thứ ách đáng sợ hơn ách nô lệ trần gian nhiều. tiếc thay, các kinh sư và biệt phái vì mù tối và ích kỷ nên đang tâm giết Chúa. Còn Chúa, trước khi chết, Chúa vẫn yêu thương và tha thứ, ngay cả kẻ giết mình. Như vậy Chúa không phải là vị Vua của Tình yêu, Vua của tha thứ sao?

c. Gợi ý sống và chia sẻ:

* Ngày xưa các kinh sư, biệt phái vì không hiểu mà giết Chúa. Ngày hôm nay chúng ta có hơn họ không? Là người kitô hữu, chúng ta có hiểu Chúa Giêsu hơn người Do thái thời xưa không? Chúng ta có tin Chúa không? Chúng ta có tin chúa là Vua thật của chúng ta, Vua các tâm hồn, Vua Tình yêu, tha thứ, Vua công chính không?

BƯỚC THEO CHÚA KITÔ 
Lc 19, 28 - 40

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội bước vào tuần cao điểm của năm Phụng vụ. Đây là thời gian tưởng niệm đặc biệt cuộc Thương khó và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Khởi đầu việc tuởng niệm này là việc tưởng nhớ biến cố Chúa Kitô vào thành Giêrusalem. Khi Người vào đến thành Giêrusalem, người Do thái đã đón tiếp Người nồng nhiệt. Họ đã lấy áo choàng mà lót đường và tung hô rằng: "Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời! " (Lc 19, 38)

Người Do thái đã tiếp đón và tung hô Chúa Kitô đúng như Người là. Chính Người là Vua và là Đấng Messia mà Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian. Người sẽ bước vào cuộc khổ nạn để cứu loài người khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Thế nhưng, thật đáng tiếc điều ấy cho tới lúc bấy giờ người Do thái vẫn chưa nhận ra. Thậm chí, các môn đệ thân tín cũng vậy. Mặc dù, Chúa Kitô đã nhiều lần dùng nhiều lời và nhiều hành động để cho họ biết đích thật Người là ai và Người đến thế gian để làm gì. Đã ba lần, Người loan báo cuộc thương khó của mình cho các môn đệ được biết. (Lc 9, 22; 9, 44;18, 31-32)

Trong tâm tưởng của người Do thái cũng như các môn đệ, Chúa Kitô sẽ là một vị vua hoàn toàn theo kiểu trần gian và Người là một Đấng Messia chính trị. Đó là khao khát luôn luôn trong suy nghĩ của họ. Họ không thể chấp nhận một Đấng Messia chịu khổ nhục. Bằng chứng là những người hôm nay tung hô Chúa Kitô là Vua thì chính họ cũng sẽ hô hào đóng đinh Chúa. Bởi lẽ, Người đã không đáp lại mong ước của họ. Chắc chắn, Chúa Kitô không thể đáp ứng lại yêu cầu của họ được. Sứ mạng của Người là phải vâng theo ý muốn của Chúa Cha. Người phải đi con đường thập giá mới cứu độ được con người.

Có thể nhiều lúc là người tín hữu nhưng ta vẫn còn theo Chúa Kitô với tâm trạng như những người Do thái xưa kia. Chúng ta theo Chúa nhưng bắt Người phải theo ý mình. Chúng ta theo Chúa Kitô nhưng lại không muốn cùng Người đi con đường Thập giá. Một nhà tu đức nọ đã nói: " Nếu bạn tìm Đức Kitô không thập giá thì bạn sẽ gặp được thập giá mà không có Đức Kitô " . Chính Người cũng đã nói: " Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo " (Lc 9, 23)

Vác thập giá theo Chúa Kitô là chúng ta chấp nhận lội ngược dòng với những suy nghĩ và cách sống của thế gian.

Giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui trên hết, còn ta lại đặt Chúa là giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.

Giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, còn ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.

Giữa một thế giới người ta xem lường gạt và đối trá là điều bình thường, còn ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô .

Xin Chúa Kitô chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta.

QUA ĐAU KHỔ VÀO TRONG VINH QUANG
Lc 22, 14-23, 56

1. LỜI CHÚA: "Sau khi ăn miếng bánh,Giu-đa liền đi ra. Lúc đó trời đã tối"(Ga 13,30).

2. CÂU CHUYỆN: MỘT CUỘC SĂN ĐÊM

Tuần báo THIS WEEK đã đăng bài giới thiệu với độc giả một vườn bách thú nổi tiếng tên là Nai Hăng Tinh (Night Hunting)- "Cuộc săn đêm". Đây là một vườn bách thú duy nhất trên thế giới mở cửa vào mỗi buổi tối từ 19g30 đến 24g00. Vườn tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 40 mẫu tây. Vườn bách thú này hiện có trên 1000 con thú thuộc 100 chủng loại khác nhau,. Chúng đến từ khắp các quốc gia trên thế giới. Trong số này có khoảng 40 con thuộc lọai thú quý hiếm. Mỗi đêm có khỏang 3000 du khách đến tham quan cảnh sống của các thú vật về đêm. Dưới ánh sáng mờ ảo, thú vật xem ra đang chìm đắm trong giấc ngủ thư thái và bình an.

Tuy nhiên ông giám đốc vườn bách thú lại cho biết suy nghĩ của ông như sau: "Một trong những điều đáng lo ngại của chúng tôi là hành động nghịch phá của một số du khách. Chẳng hạn: Một số người thì đập mạnh vào chuồng của thú dữ, số khác thì la lối om sòm phá tan sự thinh lặng cần cho việc thưởng lãm vẻ đẹp tự nhiên". Và tờ báo bình luận bằng một câu đáng cho chúng ta suy nghĩ, và cũng phù hợp với tâm tình người tín hữu phải có trong Tuần Thánh này: "Bóng đêm làm cho nhiều loài thú hoang thiếp ngủ, nhưng lại làm cho thú tính trong lòng một số người thức dậy !".

3. SUY NIỆM:

1) Ý nghĩa của Lễ Lá: Phụng vụ Lễ Lá gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa như sau.

- Một là "Giờ đã đến": Lễ Lá tưởng niệm cuộc khải hòan của Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem trước khi chịu khổ nạn, là dấu chỉ "giờ" đã đến: Đức Giê-su biết mình phải làm gì và đã chấp nhận đi con đường Chúa Cha đã định là "qua đau khổ thập giá để vào vinh quang phục sinh", như hạt lúa mì rơi xuống đất có chết đi mới sinh nhiều bông hạt.

- Hai là tôn vinh Vua hòa bình. Ðây là lần đầu tiên Đức Giê-su để cho dân chúng tung hô Người: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người ngồi trên lừa khải hòan vào thành Giê-ru-sa-lem. Cũng vì việc này mà sau đó Người đã bị xét xử và bị kết án tử hình thập giá. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng: Do thái, La tinh và Hy lạp như sau: "Giê-su Na-da-rét Vua dân Do Thái". khai mào một vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói với Phi-la-tô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi".

- Ba là suy niệm về cuộc khổ nạn của Đức Giê-su: Qua bài Thương Khó, Hội Thánh nhắc nhở các tín hữu hãy liên kết sự đau khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày với sự đau khổ của Đức Giê-su trên cây thập giá. Khi chấp nhận chịu đựng các điều trái ý gặp phải hằng ngày là chúng ta cùng chia sẻ gánh nặng của Đức Giê-su. Từ nay đau khổ và sự chết không làm cho con gười thất vọng, nhưng là đường dẫn đưa vào trong vinh quang phục sinh.

2) Chúng ta phải làm gì?:

- Kết hiệp với cuộc tử nạn của Đức Giê-su: Chấp nhận đi theo Đức Giê-su trên đường thánh giá là chúng ta sẵn sàng đón nhận mọi nỗi đau khổ do bệnh tật cũng như các tai nạn và những điều trái ý gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, liên kết với sự đau khổ của Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn. Hãy năng cầu nguyện với Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi". 

- Tỉnh thức và cầu nguyện luôn: Chúa Giê-su đã kêu gọi các môn đệ "Phải tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ! Vì tinh thần thì mau lẹ, nhưng xác thịt lại yếu hèn !" Tỉnh thức và cầu nguyện đồng nghĩa với bước đi trong ánh sáng của Chúa Giê-su là Mặt Trời Công Chính. Ánh sáng đó chính là Lời Chúa. Chỉ có Chúa Giê-su mới "là con đường, là sự thật và là sự sống". Bước đi trong ánh sáng của Người, vâng nghe Lời Người, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lạc lối, sẽ chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ và sẽ đạt tới quê trời hạnh phúc muôn đời.

- Quyết tâm sống tình yêu thương cụ thể: bằng việc giúp đỡ một người đang gặp khó khăn hoặc người đang đau khổ tinh thần lấy lại niềm vui và hy vọng. Tập nhìn những người đau khổ bệnh tật không được chăm sóc như Chúa Giê-su bị bỏ rơi trên cây thập gía, và nhiệt tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa Giê-su, để sau này được Người ban thưởng hạnh phúc Nước Trời (x Mt 25,40).

4. THẢO LUẬN: Trong những ngày mùa Chay này, mỗi người chúng ta nên làm những việc cụ thể nào để xua trừ bóng tối tội lỗi ra khỏi con người của chúng ta?

5. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU,

Vì Chúa đã lập phép Thánh Thể để làm của ăn nuôi dưỡng chúng con, xin cho những người nghèo luôn có cơm ăn áo mặc hằng ngày.

Vì Chúa đã xao xuyến trong vườn cây Dầu, xin cho chúng con đủ sức đương đầu với những khó khăn gặp phải trong cuộc sống.

Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin cho chúng con biết can đảm bênh vực công lý.

Vì Chúa đã bị xỉ nhục và nhạo báng, xin cho các người bé mọn được tôn trọng nhân phẩm.

Vì Chúa đã chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những ai đang đau khổ trên giường bệnh, nhận được sự nâng đỡ ủi an.

Vì Chúa đã bị lột áo và bị đóng đinh vào thập giá, xin cho sự hiền hòa nhân ái luôn chiến thắng bạo lực hung tàn.

Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin cho các đôi vợ chồng đang xa lìa được nối lại tình yêu ban đầu.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui hân hoan, xin cho chúng con biết vui vẻ đón nhận mọi sự khó xảy đến và phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH      www.hiephoithanhmau.com

YÊU CHO ĐẾN CÙNG
Lc 19, 28-40

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Giêsu mặc khải là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng đến thế gian để đem sự an bình cho nhân loại, chứ không phải Đấng đến để đem hận thù, chiến tranh và đổ vỡ. Chúa đến thế giới vì yêu thương con người, yêu thương loài người. Sự yêu thương nhân loại của Chúa Giêsu được diễn tả bằng việc Người cưỡi trên mình lừa tiến vào Giêrusalem...

Chúa Giêsu hoàn toàn ý thức vai trò, trách nhiệm và hết sức can đảm tiến vào Giêrusalem. Tin Mừng Gioan 12, 14-15 viết: " Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cỡi lên nó, đúng như lời Kinh Thánh dạy: Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây Vua ngươi đến, Ngài đang cỡi trên một chú lừa con". Khi tiến vào Giêrusalem, dân chúng vẫy các cành thiên tuế và reo vang:" Hosanna ! Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô Vua Israen ". Thánh Gioan kết thúc bài mô tả việc Chúa vào Thành Thánh: " Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được tôn vinh, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài " ( Ga 12, 16 ). Chúa Giêsu đã đến không phải để được hầu hạ, Ngài đến để phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đến không để kết án người khác, Ngài đến để thứ tha cho họ. Chúa Giêsu đến để những người khác được thực hiện giấc mơ của họ. Chúa đến để cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).


Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu là thực hiện ý Thiên Chúa Cha mà ý của Chúa Cha là sai Đức Giêsu đến trần gian để yêu thương mọi người. Do đó, Ngài đã bày tỏ tấm lòng yêu thương của Người: Người đã làm các phép lạ, đã chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, đã xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, yêu thương trẻ em, đồng bàn với những người tội lỗi tha thứ cho các tội nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem để thực thi ý định của Chúa Cha: chết trên thập hình tự giá để ban hạnh phúc và ơn cứu độ cho con người, cho nhiều người.


Tuy nhiên, trước khi làm tròn ý định của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã phải chịu thử thách. Satan đã nhập vào Giuđa Iscariot và y đã ra hiệu bằng một cái hôn để quân dữ bắt Ngài. Phêrô đã chối Chúa ba lần và các môn đệ khác đều bỏ Chúa mà chạy trốn. Chúa Giêsu đã hoàn toàn cảm thấy bị bỏ rơi. Ngài đã cầu nguyện để chiến thắng cám dỗ.


Chúa Giêsu vẫn tỏ ra nhẫn nhục, chịu đựng và nhân từ trước khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó là chết và chết trên thập giá. Chúa cảm thông và nhắc nhở Giuđa về tình nghĩa Thầy trò. Ngài chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Ngài nhìn Phêrô với ánh mắt trìu mến thứ tha. Ngài an ủi những người phụ nữ than khóc Ngài. Ngài thứ tha cho những kẻ làm hại, đóng đinh Ngài trên thập giá. Ngài thương tha thứ và ban thiên đàng cho người trộm lành biết ăn năn hối cải...


Và rồi, Chúa đã chết trên thập giá để nói lên tình yêu tuyệt đối và sâu đậm đối với nhân loại, đối với con người. Thánh Gioan đã viết lại Lời Chúa:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống về người mình yêu " ( Ga 15, 13 ).


Chúng ta hãy cùng Thầy Alois, viện phụ Taizé suy niệm: " Ngày Lễ Lá, Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường tiến vào thành Giêrusalem, ngồi trên lưng lừa.Dân chúng đón rước Người với một niềm vui bao la.Làm sao giúp các Kitô hữu trẻ ngày nay, cũng có một niềm vui đơn sơ, hoàn toàn tin tưởng vào Đức Kitô ? Chúng ta nên chú ý để niềm vui này, trước hết phải là nội tâm, được nuôi dưỡng bằng một lời cầu nguyện chung, được nâng đỡ bằng những khúc ca với tinh thần ca tụng...".


Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiền lành, khiêm nhường cỡi trên mình lừa để vào thành thánh Giêrusalem để được người ta tung hô, nhưng là để thực hiện ý của Thiên Chúa Cha: đau khổ, chết trên thập giá để cứu độ muôn dân. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng vào tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.

HOSANNA, VẠN TUẾ
Lc 22, 14-23, 56

Lm Vũ đình Tường

Hoan hô Thái Tử nhà Đavít. Chúc tụng Vua Israel. Đấng ngự đến nhân Danh Chúa. Hoan hô Chúa trên các tầng trời. Mt 21,9

Đó là những lời chúc tụng, ca vang, ngợi khen Đức Vua Kitô khi Ngài tiến vào thành Jêruslaem. Dân chúng không được báo trước, chuẩn bị đón chào vị vua họ ngày nhớ, đêm mong có ngày được gặp. Hôm nay đây tình cờ trên đường đi, gặp Ngài, dù thiếu chuẩn bị nhưng không thiếu niềm vui. Không biết lấy gì đón chào vị cứu tinh. Họ nghĩ ra sáng kiến, cởi áo choàng trải đường, tay cầm cành lá mới bẻ bên đường làm cờ phất phới đón chào, nhảy múa điệu chân chim, miệng ca hát, reo hò, vui mừng, đón chào Đấng Cứu Thế.


Ghen tức


Dân chúng ca tụng Đức Chúa trong khi những kẻ chống đối Ngài lại bực dọc, giận dữ, ngăn cấm họ ca hát, nhảy múa.


Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Bình an trên trời cao, vinh quang trên các tầng trời.Luca c.38


Những câu này tạo nên sự ghen tức, bực dọc của các người lãnh đạo đương thời. Họ ra lệnh ngăn cấm dân chúng. Cho họ là những kẻ thất học, mất dậy. Đức Kitô lên tiếng


Tôi bảo thật các ông, họ mà làm thinh, sỏi đá bên đường sẽ reo hò. c.40


Uy phong Đức Chúa


Đức Kitô Vua dân Do Thái tiến vào thành Jêrusalem với một phong thái khác thường. Ngài không tiến vào thành với tiếng kèn, tiếng trống. Ngài không cưỡi chiến mã, cũng không có quân binh và các tướng lãnh, tiền hô, hậu ủng. Ngài vào thành một cách âm thầm, không kèn, không trống, cưỡi trên lưng con lừa nhỏ bé mượn của dân làng. Cùng tiến vào thành thánh với Ngài vỏn vẹn có 12 tông đồ, không gậy gộc, giáo mác. Có lẽ hàng ngũ cũng không thứ tự, kẻ trước người sau, lẽo đẽo bước theo Thầy. Quang cảnh đơn hèn thế không có uy nghi, sức mạnh của một quân vương. Đức Kitô không muốn thế. Ngài không muốn tách rời ra khỏi con dân Ngài yêu quí. Một Đấng Minh Quân không cai trị dân bằng roi sắt, sức mạnh nhưng dùng tình thương, dùng thứ tha để hoán cải. Ngài hoà đồng với đại chúng. Họ ca mừng, đón chào với tất cả tâm tình, tự nguyện, bộc phát, của những lòng thành, mộ mến, kính tin. Sức mạnh nào ngăn cản được nếu đám người tầm thường bé nhỏ kia bị cấm reo vui thì sỏi đá là vật vô tri, vô giác sẽ lên tiếng. Ai dịch được ý nghĩa tiếng thông reo bên rừng. Ai giải thích nổi tiếng suối reo sau cơn mưa lũ. Tiếng rì rào của gió biển vô nghĩa hay tiếng chúng ngày này qua năm nọ ca tụng Đấng dựng nên chúng.


Được ca tụng Đức Chúa là một ân huệ. Ngài không cần tiếng con người ca ngợi bởi vì lời ca ngợi không sinh ích gì cho Chúa.


Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời
Kinh tiền tụng chung số IV


Vua muôn dân


Đức Kitô vào thành thánh không có lính tráng, quân canh nhưng có đám đông dân chúng tụ họp quanh Ngài, reo vang. Điều này cho thấy Ngài không là vua riêng cho một nhóm người, một dân, một nước. Ngài là vua vũ trụ, vua của đám đông. Vua của toàn thể nhân loại, bất kì ai thành tâm đều là con dân của Ngài như thánh vịnh 23 diễn tả


Ai được ở trong đền thánh của người
Đó là kẻ tay sạch, lòng thanh,
Chẳng mê theo ngẫu tượng,
Không thề gian, thề dối........
Đức Vua vinh hiển đó là Chúa tể càn khôn.


Tạm bợ


Đức Kitô biết tất cả những lời chúc tụng, tung hô trước Phục Sinh chỉ là tạm bợ, chóng qua, mau hết. Điều rõ ràng chúng ta nhận thấy ngay trong những lời tung hô của đám đông có pha lẫn lời dị nghị, phàn nàn. Gieo mầm chống đối đến từ nhóm lãnh đạo, nhóm cầm quyền cai trị trong tay. Chính kẻ cầm quyền châm mồi lửa, ngấm ngầm quạt cho nó bùng lên thành phong trào chống đối dẫn đến cái chết tàn bạo, khốc liệt mà Đức Kitô sắp gánh chịu. Nhóm lãnh đạo khơi mào chống đối rồi cũng chính họ ngồi toà xét xử. Kết quả phiên toà được định trước. Mọi tranh biện, tra hỏi chỉ là hình thức, giả dối.


Đức Kitô biết rõ mọi sự trên trần thế chỉ là tạm bợ. Con đường nào đi mãi cũng phải hết, kể cả đường khổ giá. Tiếng hoan ca nào cũng tàn, tràng pháo tay nào cũng nhỏ dần, tắt ngúm khi cánh tay mỏi, bàn tay rát. Vinh quang trần thế cũng vậy, bùng lên rồi tàn lụi. Mọi vinh quang trước Phục Sinh đều là tạm bợ, chóng qua, mau tàn.


Vinh quang thực sự Đức Kitô nhận từ Chúa Cha. Vinh quang mà Ngài nhận không phải bằng tiếng hoan ca của đám đông, không phải tràng pháo tay, hay điệu múa, câu hò. Vinh quang Đức Kitô giành được nhờ chiến thắng tử thần, đè bẹp tội lỗi, sống lại từ cõi chết. Nói cách khác vinh quang sau Phục Sinh là vinh quang được chính Chúa Cha ban cho. Chính vinh quang này mới thực sự là vinh quang trường cửu. Vinh quang chiến thắng sự chết. Sự chết bị tháo lui nên vinh quang đó không bao giờ chết.

CUỘC KHỔ NẠN HỒNG PHÚC CỦA CHÚA GIÊSU
Lc 22,14-23,56
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc lại Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng thứ tư của thánh Gioan, nhân loại sẽ chẳng bao giờ hết bàng hoàng, xúc động bởi vì một Đấng cứu tinh lại có thể bị kết án một cách thảm sầu, chết treo trên thập giá. Tuy nhiên, càng suy nghĩ, càng chìm sâu trong cầu nguyện, con người sẽ nhận ra rằng đây là cái chết hồng phúc của Chúa Giêsu." Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ).

Vâng, đọc lại Tin Mừng, chúng ta nhận ra một Đức Kitô đầy lòng nhân ái, một Đức Kitô luôn yêu thương con người. Do đó, suốt đời sống công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã yêu thương mọi người, Ngài đã chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỉ, gần gũi những người nghèo khó, những kẻ tội lỗi, những người bần cùng bị xã hội đặt ra bên lề xã hội, Ngài đã dạy dỗ dân chúng, âu yếm yêu thương trẻ thơ, tha thứ cho những tội nhân. Hôm nay, theo ý định của Thiên Chúa Cha, Đức Kitô đã đi vào giai đoạn cuối cùng của đời Ngài: Ngài đã quyết định yêu nhân loại cho tới cùng, yêu cho đến chấp nhận đau khổ tột cùng và chấp nhận cái chết trên thập giá.


Đức Kitô đã được Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa ăn chay, tĩnh dưỡng và chịu để ma quỉ cám dỗ. Tuy nhiên, Tin Mừng cho hay, Ngài đã chiến thắng ma quỉ khi chúng đánh vào Ngài bằng ba phương diện hết sức thực tế, nhưng cũng rất thâm độc. Đó là vật chất, danh vọng và lòng trung tín đối với Chúa Cha biểu lộ qua đức khiêm nhượng của Ngài. Đức Kitô đã chiến thắng tất cả nhưng Tin Mừng lại viết: " Quỉ rút lui để chờ dịp khác " ( Lc 4, 13 ). Đây là cơn cám dỗ cuối cùng. Dịp khác, đó là ngày hôm nay, khi ma quỉ nhập vào môn đệ Giuđa, người tông đồ phản nghịch, ham tiền ham của đã dùng cái hôn để nộp Thầy mình. Ma quỉ sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo, để Phêrô chối Thầy đến ba lần và các môn đệ khác thì bỏ Thầy trốn tán loạn. Vườn Cây Dầu là nơi diễn ra giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự thiện và sự ác. Chúa Giêsu đã dùng lời cầu nguyện, liên kết mật thiết với Thiên Chúa Cha để thắng cám dỗ. Chúa Giêsu đã phải đương đầu với cuộc chiến nội tâm thật gay go, căng thẳng. Ngài đã xin Chúa Cha cất khỏi Ngài chén đắng nhưng không theo ý Ngài mà theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến nội tâm ấy đã làm cho Ngài xao xuyến, mồ hôi máu đổ ra. Đau khổ và đau khổ tột độ.


Tuy nhiên, Chúa Giêsu luôn tỏ ra hiền hòa, quảng đại, bao dung. Ngài đã ra đón Giuđa và nhắc nhở Giuđa về nghĩa Thầy trò. Ngài chữa lành tên đầy tớ Mancô bị Phêrô chém đứt tai. Ngài nhìn Phêrô với ánh mắt nhân hiền, cảm thông và tha thứ cho Phêrô khi ông đang tâm chối Thầy. Ngài đứng lại an ủi những người phụ nữ đi theo khóc than, thương Ngài. Ngài xin Thiên Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm khổ và đóng đinh Ngài. Ngài thưởng thiên đàng cho tên trộm lành biết thống hối ăn năn.


Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng yêu thương mọi người và đã hoàn thành ý định của Thiên Chúa Cha. Chúa đã yêu thương nhân loại, yêu thương mọi người cho đến giọt máu, cho đến hơi thở cuối cùng.


Cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu là một cuộc tử nạn hồng phúc bởi vì Chúa đã hoàn toàn tự do, tự nguyện thực hiện kế hoạch yêu thương loài người của Thiên Chúa Cha. Nhờ cuộc tử nạn hồng phúc của Chúa mà muôn người được ơn cứu độ. Đúng như lời Ngài nói: " Khi nào Ta bị giương cao lên khỏi mặt đất Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta ".


Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con càng ngày càng hiểu Chúa hơn để chúng con luôn mến Chúa hơn là yêu bản thân chúng con vì Chúa đã yêu thương chúng con đến nỗi hy sinh chính mạng sống vì chúng con. Amen
.

ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA VÀO GIÊRUSALEM
Lc 22, 14 - 23
Lm. Jude Siciliano, OP

Có lẽ nhận xét sau đây của đức cha Helder Camara giúp chúng ta dễ hiểu đau khổ và cái chết của Đức Kitô trong tuần này: "Một số linh hồn giống như cây mía, khi bị bầm dập nghiền nát, vắt ép trong chiếc máy làm đường, nó chỉ cho ra mật ngọt mà thôi." Đau khổ của Đức Giêsu cũng vậy, nó ban cho nhân loại hạnh phúc trong tình yêu thần linh. Đau khổ của Ngài không trực tiếp cứu thế giới, mà chỉ là phương tiện. Yếu tố chính yếu cứu thế giới là tình yêu. Tình yêu khiến Ngài chịu đau khổ và cái chết vì nhân loại.

Đó là lý do tại sao trong suốt Phúc Âm Luca, Chúa Giêsu luôn miệng nói với đám đông: "Tôi phải đi lên Giêrusalem." Và ngày hôm nay, câu mở đầu của Tin Mừng là: "Bấy giờ Đức Giêsu dẫn đầu các môn đệ, tiến lên Giêrusalem." Trình thuật tiếp tục kể về giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình định mệnh này. Ngài cưỡi trên lưng lừa con và toàn dân tung hô: Hoan hô con vua Đavít, Đấng ngự đến nhân danh Thiên Chúa. Chúc tụng Thiên Chúa trên các tầng trời. Đây là khoảnh khắc cao điểm của Chúa Giêsu và các môn đệ, không khoảnh khắc nào mang tính quyết định như hôm nay, mặc dầu các môn đệ không hiểu biết gì! Và chúng ta cũng được dẫn vào mầu nhiệm tuần thánh.


Chúa Giêsu tiến vào thành thánh từ phía đông. Phía đông là phía mặt trời mọc. Một ngày mới bắt đầu. Chúa Giêsu cũng báo hiệu một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Kỷ nguyên với mặt trời cứu độ xuất hiện. Bóng tối của bao nhiêu thế kỷ đã bị đẩy lui, những nếp sống cũ không còn thống trị nữa. Chết không phải là tận cùng. Thành công kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự... không còn là tiêu chuẩn để đo lường con người sinh ra trên mặt đất này. Bạo lực không còn là phương tiện để đàn áp đối thủ. Hôm nay, Chúa Giêsu, các môn đệ, đám đông vào thành thánh khởi sự một ngày mới cho toàn thể nhân loại. Nó nói với mỗi linh hồn: Thiên Chúa không hề lãng quên tình trạng đen tối của bất cứ ai. Xin đừng nghi ngờ. Các đau khổ của nhân loại không rơi vào tai điếc. Thiên Chúa đã chú ý lắng nghe và Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để cứu chuộc.


Thực vậy, nếu chúng ta để ý, Giêrusalem là biểu tượng của thế giới này. Lúc ấy, Giêrusalem là thành phố rất quan trọng và nổi tiếng. Nó là trung tâm tôn giáo, chính trị của người Dothái và cả miền trung đông. Đi lên Giêrusalem là một niềm vui. Người ta hồ hởi lên thành thánh trong các dịp lễ lớn. Người Dothái đạo đức không hề thíêu sót bổn phận lên Giêrusalem để dâng lễ vật và tham dự các nghi thức. Đối với tín hữu Dothái, Giêrusalem là biểu tượng vĩ đại của lòng tin và danh dự dân tộc, nhất là ngôi đền đẹp đẽ nguy nga mà cha ông đã dày công xây dựng. Các lễ nghi đều diễn ra trong đền thánh hay chung quanh đền. Nhưng đối với người Rôma, Giêrusalem cũng là thành phố quan trọng về mặt quân sự, chính trị. Không những quyền bính Dothái nằm ở đó, mà quyền bính đế quốc cũng hội tụ ở đó. Như vậy Giêrusalem về nhiều mặt, là trung tâm của thế giới Dothái mà người Rôma phải lưu ý. Như vậy, hôm nay Chúa Giêsu bước vào một nơi mà các quyền lực đạo đời tập trung. Ngài vào với một tư cách đặc biệt, một sứ mệnh đặc biệt, vào dịp lễ đặc biệt của dân tộc Dothái, lễ vượt qua, kỷ niệm cha ông họ được thoát vòng nô lệ Ai cập.


Đức Giêsu và các môn đệ hiểu rõ cuộc hành trình này nguy hiểm biết bao. Các thế lực đạo đời không thể làm ngơ sự có mặt của Chúa và các môn đệ. Quan điểm tôn giáo về Thiên Chúa, về con người, về đền thờ, về tập tục, về luật Môsê đe doạ nền an ninh chung. Lòng hào hiêp đối với tội nhân, lòng thương cảm đối với những kẻ bên lề gây rối loạn xã hội. Nhất là lời dạy về Nước Trời, trực tiếp đối lập với truyền thống cha ông. Còn đối với chính quyền Rôma, Ngài thách thức sức mạnh của họ, trong việc đàn áp kẻ yếu thế bằng bạo lực tàn nhẫn. Đó là tình hình Giêrusalem khi Đức Giêsu bước vào cổng thành: "Hoan hô con vua Đavít, Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, vinh quang trên các tầng trơì."


Chẳng lạ gì các quyền bính thế tục mau chóng tìm bắt Chúa, thẩm tra Ngài, kết án và đóng đinh. Đó cũng là số phận của những ai muốn thiết lập Nước Trời trong xã hội, trên thế giới hôm nay. Giêrusalem chính là biểu tượng của các vị thần mà chúng ta tôn thờ: tiền bạc, chức quyền, sắc dục, tiện nghi, giàu có, tiếng tăm, địa vị. Giêrusalem tân thời của chúng ta là đủ mọi loại thoả hiệp với thế gian để được an toàn tôn giáo, chính trị mà làm ngơ trước bất công, bóc lột. Chúng ta có thể bằng lòng với hiện trạng. Việc chi phải lên Giêrusalem? Cứ trung lập và giảng giải những điều vô hại, tránh xa những rắc rối, cầu nguyện và hy vọng lên thiên đàng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu vào thành Gierusalem "giơ mặt chai như đá" và thách đố mỗi người theo gương Ngài, chống đối Gierusalem tân thời. Chúng ta khuất phục ai? Tôn thờ ai? Thoả hiệp với ai? Ai điều khiển cuộc đời chúng ta? Chúng ta lẩn tránh những trách nhiệm nào? Tiếng Chúa gây hiệu quả nào nơi chúng ta? Phúc Âm đòi hỏi chúng ta bổn phận nào? Cứ đặt những câu hỏi như vậy, chúng ta sẽ nhận ra thiếu sót của mình.


Trong một lớp giáo lý, cha xứ hỏi các học viên: Chúng con nghĩ thế nào về Chúa Giêsu: Ngài thành công hay thất bại? Sau lúc yên lặng và suy nghĩ, một thiếu niên đứng dậy trả lời: Thưa cha, thất bại thê thảm. Thế lực đền thờ chẳng tin vào Ngài, cho Ngài là một mối đe doạ, sai bắt và giết đi, các môn đệ trốn hết, chẳng thất bại là gì? Và họ muốn cha xứ giải quyết vấn đề! Cha xứ chỉ lên cây thánh giá, ôn tồn nói: Đó, cờ hiệu chiến thắng của chúng ta là tượng chịu nạn. Khi người tín hữu gặp cái dữ thì không trốn chạy để được an toàn, mà đối đầu trực tiếp với nó. Cái dữ luân lý phải bị đánh bại bằng bất cứ giá nào, ngay cả khi phải thiệt mạng. Chúa Giêsu làm đúng như vậy. Các con bảo Ngài thất bại hay thành công? Thưa, thành công, cả lớp đồng thanh nói. Vậy thì chúng ta không được chạy trốn, cha xứ tiếp, người công giáo không được lảng tránh đối đầu với cái dữ.


Thiết tưởng ý nghĩ của cha xứ đã rõ ràng. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã đánh bạc với thế gian và Ngài đã thua. Nhưng từ cái thua ấy mà chiến thắng nảy sinh. Thiên Chúa đã hành động qua Đức Kitô. Ngài đã thua, nhưng tất cả nhân loại đều thắng. Vậy đạo công giáo làm nhiều hơn là giải thích đau khổ và sự chết. Nó cống hiến cho cái chết và đau khổ một ý nghĩa. Chúa Giêsu đã cứu chuộc đau khổ của nhân loại. Cho nên đau khổ của mỗi người phải góp phần cứu rỗi thế giới: "Những ai không vác thập giá mình mà theo, thì chẳng xứng đáng là môn đệ ta." Trốn tránh đau khổ chẳng giúp ích được gì, chỉ làm đau khổ tăng thêm. Đối đầu với nó mới là giải pháp làm giảm thiểu đau khổ trên thế giới.


Vậy, mỗi người chúng ta phải liên kết với Chúa Giêsu đi lên Gierusalem tân thời "giơ mặt chai như đá" với các xấu xa của lòng mình, của thế gian. Giống như Chúa Giêsu, có thể Gierusalem mới đặt chúng ta vaò tình huống thất bại. Chúng ta phải gánh lấy chê cười, nhục nhằn và cả cái chết. Hằng ngày chúng ta phải trực diện với những sức mạnh thù nghịch ghê gớm: Giáo dục thế tục, giải trừ thánh thiêng, cổ võ phá thai, trợ tử, hô hào bạo lực, những tổ chức xã hội đen, những dụ dỗ ngon ngọt, thần mammon. Phải can đảm lắm mới giữ vững lập trường theo Chúa lên Gierusalem và kinh nghiệm những gì Chúa đã trải qua. Chúng ta được Chúa mời gọi vác thập gia và khinh chê những giá trị trước đây mình trân trọng. Nhưng trước hết hãy để Chúa Giêsu vác thập giá đi tiên phong, chúng ta sẽ theo Ngài. Theo một cách cương quyết và trung thành. Theo Ngài vào Gierusalem tân thời với những thách thức của nó. Chúng ta không sợ thương tích nếu thật lòng yêu mến Chúa Kitô, nhắm thẳng con đường vâng phục Chúa Cha. Có lẽ chúng ta phải gánh chịu thiệt thòi với Ngài, đồng hoá với thất bại của Ngài. Nhưng ngang qua cái chết và phục sinh của Ngài, chúng ta kinh nghiệm sức sống mới.


Tại sao hôm nay giơ cao cành lá và vẫy chào Đức Kitô? Có phải chiến thắng rồi sao? Có phải mọi thứ trên thế giới đã đi vào ổn định? Có phải không còn đau khổ nữa? Không đúng vậy. Thế giới vẫn còn vô số những khổ cực. Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn ở nhiều nơi trên thế giới. Người ta đang tranh giành khốc liệt quyền lực, ảnh hưởng, thị trường, sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự. Còn đầy dẫy xìke, ma tuý, aids, khủng bố, bạo lực. Chúng ta không thể nhắm mắt với thực tế rồi giơ cao cành lá vẫy chào! Thế giới còn quá nhiều gian khổ, bất công. Nhưng hôm nay Đức Kitô vào thành thánh để cứu chuộc nó. Chúa thẳng thắn đối diện với tội lỗi để tẩy trừ nó khỏi thế gian, giải phóng loài người khỏi kiếp nô lệ satan và chúng ta được tự do như dân Dothái xưa. Chẳng phải đó là nỗi vui mừng lớn lao sao? Chẳng phải đó là lý do chính đáng để đám đông xưa và chúng ta hôm nay đón chào sao? Các thần Hylạp ngày xưa đã chịu thua sự dữ, họ bị kìm kẹp không lối thoát, cho nên các triết gia Hylạp phát triển một hệ thống triết lý định mệnh rất phong phú: Các thần lại chào thua tài trí của mình. Đến thời đông phương cống hiến học thuyết phiếm thần, thì con người lại rơi vào vòng luẩn quẩn của nghiệp chướng, luân hồi. Nguyền rủa số phận, nguyền rủa cái dữ là phạm thượng, vì cái dữ cũng là thần!


Chúa Giêsu chiếng thắng tất cả não trạng đó, cứu chuộc đau khổ, trả lại hạnh phúc cho nhân loại. Hôm nay khởi sự tiến trình ấy, chúng ta không có lý do để vui mừng sao? Thực sự Chúa vào thành thánh của mỗi tâm hồn. Nơi đó tích tụ mọi rác rến của bản tính sa ngã: kiêu ngạo, dâm dục, giả hình, cùng với những thất bại khổ đau, để biến đổi chúng nên thánh thiện. Đường lối của Ngài như bài đọc hai hôm nay chỉ ra: Vâng lời Thiên Chúa cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đi ngược hẳn với nếp sống của chúng ta, để thánh hoá nó. Ngài chọn thánh thánh mỗi người để chịu đau khổ và sống lại vinh quang. Chúng ta chẳng còn con đường nào khác ngoài việc noi gương Ngài. Đường lối kiêu căng giả hình của cấp lãnh đạo Do thái và quyền bính Rôma phải bị loại bỏ. Nhưng vừa đúng lúc tới cổng thành, tưởng chừng như chiến thắng đã đến nơi thì Chúa Giêsu oà lên khóc. Vì sao? Quý vị hẳn đoán ra: Thế gian từ chối Ngài, hành hạ và đóng đinh Ngài. Liệu đó là thái độ của bạn, của tôi trước sự hiện diện của Chúa? Nếu chúng ta hằng ngày chọn thế gian và những sung sướng của nó thì đúng vậy. Chúng ta chỉ là những kẻ giả hình không hơn không kém. Nhưng nếu chúng ta thực sự là môn đệ Chúa, chúng ta phải từ chối hoàn toàn bản thân mình, đi theo Ngài vào thành. Lúc ấy chúng ta có lý do để giơ cao cành lá, đón chào ơn cưú độ. Giây phút sống lại chẳng còn bao xa. Amen.

CHIÊM NGẮM ĐƯỜNG THƯƠNG KHÓ CHÚA
Lc 22, 14-13, 56
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Cùng với Giáo hội, chúng ta đang sống trong những ngày trọng đại nhất của năm Phụng vụ. Với Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm những giờ phút cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu từ bàn tiệc Ly đến nơi huyệt mộ. Đặc biệt hơn, với thánh sử Luca- vốn được mệnh danh là "Ký giả của lòng Chúa nhân hậu"- chúng ta còn được chiêm ngưỡng hình ảnh Chúa Giêsu trên đường Thương khó dưới cách nhìn rất độc đáo và tấm lòng trân quý về người Thầy Chí Thánh của mình.

1. Chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu Khổ hình vì nhân loại Có thể thấy điểm khác biệt rõ nhất nơi Tin mừng Luca so với các Tin mừng khác là ông luôn dành cho Chúa Giêsu một tình cảm đặc biệt. Chính vì thế, rất nhiều lần nếu như Máccô trình bày cuộc Thương khó cách trần trụi và bi đát, "có sao nói vậy" thì Luca, trái lại, trình bày cuộc Thương khó của Chúa Giêsu như một bài suy niệm để các môn đệ có dịp chiêm ngắm hình ảnh Thầy mình chịu Khổ hình vì tình yêu nhân loại. Vì thế, trong trình thuật Thương khó, Luca đã giảm nhẹ hầu hết những gì quá bi đát như không quá nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Giêsu bị bắt; không trích những lời sỉ vả hay xúc phạm đến thân thể Người của quân lính Rôma;...


Vì là bài suy niệm dành cho các môn đệ, nên Luca cách nào đó đã lồng vào trình thuật Thương khó những sự kiện rất riêng của mình như lời giáo huấn của Chúa Giêsu trước và sau việc lập Bí tích Thánh Thể; trên núi Ôliu, Thiên sứ hiện ra để tăng sức cho Người hay sự kiện mồ hôi máu rơi xuống đất; chữa tai tên đầy tớ thầy thượng tế; ánh mắt đầy yêu thương của Chúa khiến cho Phêrô bừng tỉnh trong sự khóc lóc ăn năn; ba lần Philatô tuyên bố Chúa Giêsu vô tội; trên Thập giá, Chúa Giêsu xin Cha tha tội cho những kẻ hành quyết Người; lời đối thoại với anh trộm lành và lời sau hết được xem như lời kinh chiều Người cầu nguyện với Cha trước khi trút hơi thở cuối cùng. Cho hay, khi chiêm ngắm đường Thương khó của Thầy, người môn đệ phải chân nhận, con đường đi qua của Thầy rồi đây cũng sẽ là con đường gắn bó với mình trong suốt cuộc đời bước theo Thầy Chí Thánh.


2. Chiêm ngắm Chúa Giêsu là Đấng vô tội Luca đã không quá tốn công để bào chữa cho những lời kết án mà thủ lãnh Dothái cố tình gán ghép cho Chúa Giêsu hòng kết án Người; trái lại thánh sử đã để cho những con người từ những nhà lãnh đạo quyền thế, những ông quan toà cho đến quân lính và dân chúng tự nói lên, tự tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng vô tội, là Đấng công chính. Thật thế, chúng ta thấy, trong phiên toà xét xử Chúa Giêsu, vua Hêrôđê không thấy có bằng chứng gì để tố cáo Người nên mới trả về cho Philatô tiếp tục xét xử. Về phần mình, có đến ba lần Philatô công khai tuyên bố rằng ông không thấy Chúa Giêsu có tội gì (23,4.14.22). Rồi viên đại đội trưởng khi nhìn thấy toàn bộ sự việc đã phải thốt lên : "Người này quả thật là công chính", đám đông thay vì biểu tình hò hét, giờ đây lại đấm ngực, lầm lũi trở về.


3. Chiêm ngắm Chúa Giêsu là Đấng nhân từ và tha thứ Đường Thương khó của Chúa Giêsu còn là dịp để chúng ta chiêm ngắm lòng nhân ái bao dung và tha thứ của Người. Hãy xem ánh mắt đầy tình yêu thương của Chúa khi quay lại nhìn Phêrô trong khi ông vẫn đang "hăng hái" chối bỏ mối quan hệ giữa mình với Thầy chỉ vì một tên tớ gái vô danh nào đấy. Anh mắt của Chúa đã kịp thời uốn nắn con người ông - một con người mà chỉ mới đây thôi còn vỗ ngực vênh váo trước mặt Thầy cũng như đồng môn : "Với Chúa, con sẵn sàng vào tù và có chết cũng cam", giờ đây phải khóc lóc thảm thiết, ăn năn về lầm lỗi của mình. Còn đối với Giuđa, dù biết rằng anh ta phản bội, dùng cái hôn để bán đứng Thầy, nhưng không vì thế Chúa Giêsu trách mắng, trái lại Người dùng những lời lẽ nhân từ để trao đổi với anh : "Giuđa ơi! Anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao!". Còn với người trôm lành, Chúa Giêsu cho thấy việc anh nhận ra lầm lỗi của mình, nhận ra người đang cùng chịu treo với mình là "người không làm điều gì sai trái" đủ để anh được cùng Người hưởng phúc vinh quang. Ngay như tội tày đình của thủ lãnh Dothái, của dân chúng và tất cả những ai tham dự vào vụ án này cũng được đón nhận sự tha thứ rất chân thành của Chúa khi Người cầu xin Cha đừng chấp tội lỗi của họ. Rõ ràng là, làm sao Chúa Giêsu có thể chấp nhất tội lỗi của con người, có thể quy kết tội lỗi của họ khi mà Máu Người đổ ra để cứu rỗi cho muôn người. Thập giá của Người chính là Tình yêu, chính là lòng nhân từ, sự tha thứ và cứu rỗi chứ không phải lòng oán thù, lên án và khinh khi.


Chiêm ngắm đường Thương khó Chúa là dịp để mỗi người chúng ta đồng hành và chia sẻ những đớn đau mà Chúa phải trải qua trên đường Thập giá; là dịp để chúng ta nhận ra tình yêu, lòng bao dung và sự tha thứ Chúa dành cho con người. Chúng ta cũng được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh trong vâng phục và yêu thương để rao giảng và làm chứng cho thế giới này biết thế nào là tình yêu đích thực, tình yêu tự hiến mà Thiên Chúa ưu ái dành cho nhân loại.


CÁI CHẾT CỦA TÌNH YÊU
Lc 22, 14-23, 56
Lm Phêrô Trần Thanh Sơn

Trong cuộc sống của con người, có lẽ không có gì làm cho chúng ta sợ hãi cho bằng cái chết. Tuy nhiên, không có gì thật và công bằng như cái chết. Chết là con đường chung cho tất cả mọi người: nam - phụ - lão - ấu, không trừ ai. Không ai có thể chạy trốn khỏi cái chết.

Mặt khác, tuy rằng cái chết là chung cho tất cả mọi người, nhưng cách đối mặt với cái chết của mỗi người lại rất khác nhau. Hôm nay, tôi muốn được chia sẻ với quý OBACE về một cái chết hết sức đặc biệt, cái chết của một vị Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa, vì yêu thương, đã chấp nhận chết để cho người mình yêu được sống. Do đó, có thể nói: Đây là một cái chết tuyệt vời, cái chết đem lại sự hòa giải, cái chết đem lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho toàn thể nhân loại, cho quý OBACE, cho tôi.


1. CÁI CHẾT CỦA CON NGƯỜI :


Trước khi đề cập đến cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhìn lại cách mà con người thường dùng khi đối mặt với cái chết. Thông thường, khi đứng trước cái chết, thì tâm lý chung là sợ hãi và tìm cách trốn chạy.


Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chúng ta gặp thấy có một số người rất can đảm không hề tỏ thái độ sợ hãi trước cái chết. Chẳng hạn như các anh hùng liệt sĩ, các cảm tử quân... Đây quả là những hình ảnh thật anh hùng, quả cảm. Tuy nhiên, đàng sau những cái chết này thường là những lời dặn dò, trăn trối với những người còn sống, với bạn bè, đồng đội là "Hãy trả thù cho họ". Cái chết của những người này thường làm tăng thêm sự oán hận, căm thù nơi những người còn sống. Từ đó, hố sâu ngăn cách giữa người với người, giữa phe nhóm này với phe nhóm kia ngày càng rộng hơn, sâu hơn.


Như thế, nhìn bên ngoài thì có vẻ anh hùng, nhưng đây là một cái chết để tiếp tục cho những cái chết khác. Những người này chết để phe của họ có thể dành được chiến thắng. Cho dù để có chiến thắng đó, sẽ phải tiếp tục đổ thật nhiều máu của kẻ thù. Xét cho cùng đây cũng chỉ là cái chết bất đắc dĩ, cái chết cho tư lợi riêng của bản thân, của phe nhóm mình.


Những cái chết này nếu đem so với cái chết của Chúa Giêsu thì quả thật có sự khác biệt rất lớn.


2. CÁI CHẾT CỦA TÌNH YÊU :


Trước hết, cái chết của Chúa Giêsu là một cái chết tự nguyện hiến thân cho người mình yêu. Trong vườn Cây Dầu giữa nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của con đường thập giá, Chúa Giêsu cũng đã muốn thoái lui, nhưng cuối cùng tình yêu đã chiến thắng. Với một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và một lòng thương xót hải hà dành cho chúng ta, Ngài đã dâng lên Chúa Cha một lời nguyện thật cảm động: "
Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng viết: "Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người đã hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, ... Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá".

Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Chúa Giêsu, ngay giữa những đau khổ cùng cực nhất trên thập giá, trong hơi thở cuối cùng đã lên tiếng cầu xin cho chính những kẻ vừa hành hạ, đóng đinh Ngài: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".


Tình yêu của Chúa Giêsu còn thể hiện qua ánh mắt thương xót Ngài dành cho Phêrô khi ông đã ba lần chối Ngài. Thánh sử Luca thuật lại:
"Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô". Một tình yêu hoàn toàn vị tha, quên mất nỗi đau khổ mình đang gánh chịu, để luôn dành trọn tâm trí của mình cho người khác. Đó là tình yêu của Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta. Trên đường thập giá, mặc cho gánh nặng của thập giá, cùng với bao vết thương từ đòn đánh của bọn lính, Chúa Giêsu vẫn dừng lại để yên ủi, vỗ về những kẻ theo Ngài: "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi".

Không giống như cái chết của các anh hùng trong lịch sử, một cái chết đòi trả bằng giá máu, làm cho mối hận thù ngày càng sâu đậm hơn. Chúa Giêsu đã chết để giao hòa đất với trời. Thánh Luca cho biết ngay khi chúng ta trút hơi thở thì "màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Cha, Con phó thác linh hồn Con trong tay Cha". Nói đoạn Người trút hơi thở". Màn Đền Thờ đã xé ra để từ đây, con người có thể đến với Thiên Chúa, tôn vinh Thiên Chúa và được Thiên Chúa giao hòa. Người đầu tiên được cảm hóa bởi cái chết vì tình yêu của Chúa Giêsu chính là vị sĩ quan chỉ huy cuộc hành hình Ngài, Kinh Thánh thuật lại: "Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: "Ông này quả thật là người công chính".


3. CÁI CHẾT HÔM NAY CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU :


Chết đi cho con người cũ. Chết khi đón nhận sự vu oan, hiểu lầm từ những người thân nhất của mình. Chết khi phải từ bỏ một thói quen, một sở thích để sống theo đòi hỏi của Tin mừng. Chết khi vượt thắng sự lười biếng để dấn thân phục vụ gia đình, phục vụ cộng đoàn. Chết khi chấp nhận sống tiết kiệm, để chia sẻ cho tha nhân... Những cái chết này tuy âm thầm, nhưng kéo dài suốt cuộc sống của người Kitô hữu. Đồng thời, nó cũng đòi hỏi một sự can đảm và sức mạnh nội tâm vô cùng lớn nơi mỗi người chúng ta, để có thể vượt qua. Một sức mạnh của tình yêu. Chỉ khi chúng ta yêu Chúa, yêu người được như Chúa yêu chúng ta, thì chúng ta mới có thể đi trọn vẹn theo con đường thập giá của Đức Kitô. Nhờ đó, chúng ta sẽ được thông phần vào sự sống mới của Ngài, một sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc muôn đời. Amen.

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU PHỤC VỤ
Lc 22, 14-23, 56
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu theo thánh Luca, chúng ta như thấy toát lên con người đầy nhân ái, hay chạnh lòng thương xót của Chúa Giêsu. Nói như thánh Gioan:" Thiên Chúa là tình yêu" quả không quá đáng chút nào.Phần nói về sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu là phần rất quan trọng các sách Tin Mừng. Tuy nhiên, theo thánh Luca ngoài việc nói về sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta dễ nhận ra các chủ đề khác như Chúa Giêsu vô tội, tội lỗi của các thượng tế, ký lục, biệt phái,thánh Phêrô chối Chúa, các môn đệ khác sợ hãi, chạy trốn tán loạn, ông Simon người Kyrênê vác đỡ thập giá cho Chúa Giêsu. Tin Mừng của thánh Luca thật gợi cảm, nói lên đầy đủ ý nghĩa của Con-Người-Chúa-Của-Đức Giêsu: tâm tình, những thống khổ của kiếp làm người và tính thần linh của Con Thiên Chúa làm người. Chúng ta dừng lại ở 3 điểm của trình thuật này: Phục vụ của Chúa Giêsu, yếu đuối của con người và sự tha thứ của Chúa Giêsu.


1. CHÚA PHỤC VỤ NHƯ MỘT NGƯỜI TÔI TỚ:


Trong thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2006 với chủ đề:" Sống yêu thương và phục vụ". Phục vụ vì yêu thương. Yêu thương để phục vụ tha nhân và mọi người. Chúng ta thấy rõ trong đoạn Tin Mừng nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Luca viết " Chúa Giêsu nói với các môn đệ:"Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ"(Lc 22,27 ). Chúa Giêsu làm gương cho các môn đệ bằng cách cúi xuống rửa chân cho các ông. Quả thực, cho tới lúc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, các ông cũng vẫn chưa hiểu thêm chút nào về việc Chúa Giêsu sẽ làm và trong bữa ăn tối Tiệc Ly, các ông cũng chỉ nói lên những lo lắng hết sức trần tục của các ông. Chúa Giêsu cảm thấy cô đơn vì các môn đệ hầu như muốn bỏ rơi Chúa hoàn toàn. Đọc lại Tin Mừng của Chúa Giêsu: Nhất lãm và Tin Mừng thứ tư của thánh Gioan, chúng ta như chứng kiến một chuỗi dài ngày sống của Chúa Giêsu ở trần gian là một chuỗi những ngày phục vụ, đặc biệt trong ba năm Ngài và các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Chúa và các môn đệ quên ăn, quên ngủ, cả chặng đường này là những ngày Chúa rao giảng không ngơi nghỉ cho dân chúng, cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền, làm phép lạ cho kẻ chết sống lại vv...Giáo Hội Việt Nam khơi lên tinh thần sống yêu thương và phục vụ để làm nổi bật gương của Chúa Giêsu mà mọi người, đặc biệt những Kitô hữu Việt nam phải noi gương bắt chước Chúa để sống phục vụ như Ngài.


2. SỰ YẾU ĐUỐI CỦA CON NGƯỜI:


Đọc trình thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Luca cho thấy Phêrô, sau này là thủ lãnh và là đầu của Giáo Hội hoàn vũ: mau mắn, quyết tâm đó, nhưng lại dễ sa ngã, chối Chúa đến 3 lần. Phêrô được Chúa khen khi ông tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, được Chúa gọi là Kêpha nghĩa là Đá. Nền tảng Đá của Phêrô tưởng chừng vững chắc lắm nhưng ông lại yếu đuối:"Cản ngăn con đường cứu thế của Chúa và chối Chúa đến không thương không tiếc". Các môn đệ khác thì bỏ trốn Chúa một cách vô tội vạ( Mc 14, 51-52 ). Đời sống của người Kitô hữu là một cuộc hành trình đức tin nhiều thử thách, lắm chông gai. Con người có thể chối Chúa, có thể nhát đảm bỏ rơi Chúa vì thiếu lòng tin, nhưng cũng có thể vì danh vọng, vì quyền lợi mà quên đi đạo làm con Chúa.


3. CHÚA THỨ THA :


Tin Mừng của thánh Luca là Tin Mừng về lòng nhân từ, thương xót của Chúa Giêsu. Dụ ngôn người"Con hoang đàng"(Lc 15, 11-32 )và sự tha thứ của Chúa đối với những kẻ làm thiệt hại mình ( Lc22,34 ). Đọc toàn bộ Tin Mừng Nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta thấy rất nhiều dụ ngôn nói về lòng thương xót của Chúa chẳng hạn dụ ngôn " Người phụ nữ ngoại tình"(Ga 8,1-11). Chúng ta có thể ghiền gẫm nhiều đoạn Kinh Thánh của Tin Mừng Nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan nói lên tình thương sâu xa của Chúa Giêsu đối với con người.


Chủ đề của thư mục vụ của các Đức Giám Mục Việt Nam 2006 : Chúng ta hiểu sâu hơn về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, tình thương vô biên của Ngài đối với chúng ta, nhờ đó chúng ta dễ học đòi bắt chước Chúa"Sống yêu thương và phục vụ".


Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống yêu thương và phục vụ như Chúa
. Amen.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Lc 22, 14-23, 56
John Nguyễn

1. Con người dễ thay đổi

Trong bài Tin Mừng của nghi thức rước lá, ta thấy thái độ của người Do Thái là nhiệt tình tung hô Đức Ki-tô, như muốn tôn Ngài làm vua. Nhưng trong bài Tin Mừng thương khó, ta lại thấy thái độ của họ là đòi giết Ngài mà tha Ba-ra-ba. Hai sự kiện, hai thái độ đó xảy ra cách nhau không bao lâu. Điều nhiều khi làm tôi rất ngạc nhiên là tại sao dân chúng lại thay đổi thái độ nhanh như vậy đối với Đức Ki-tô? Tương tự, đầu bài thương khó, ta thấy Phê-rô quả quyết: "Thưa Thầy, dù có phải vào tù hay phải chết với Thầy đi nữa, con cũng sẵn sàng". Nhưng chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, ông đã chối Thầy mình tới ba lần, chỉ vì sợ người ta biết mình là môn đệ của Thầy, cho dù lúc đầu chỉ là một đứa đầy tớ gái của vị thượng tế hỏi ông.


Đôi khi tôi tự hỏi: liệu mình có thể thay đổi thái độ nhanh chóng như thế không? Tôi thường tự nhủ rằng mình sẽ khong thay đổi, sẽ trước sau như một, sẽ trung thành với Chúa, với lập trường của mình, sẽ chung thủy với người bạn trăm năm của mình mãi mãi, v.v... Và tôi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ thay đổi. Nhưng kìa chung quanh tôi có biết bao người đã thay đổi!


2. Kinh nghiệm của tôi


Có những người tôi tưởng rằng sẽ không bao giờ thay đổi, vì tôi đã từng nghe họ tâm sự một cách chân thành về sự quyết tâm không thay đổi của họ. Thế mà họ đã thay đổi! Có những người tỏ ra bất mãn cực độ về thái độ đáng ghét của một người khác, khiến tôi tưởng rằng họ sẽ không bao giờ có thái độ như thế với ai. Nhưng tôi thấy khi họ ở vào địa vị hay trường hợp giống như người kia, thì họ cũng lại hành xử y như thế.


Đọc lịch sử, tôi thấy có những ông vua: khi còn phải nằm gai nếm mật để chiến đấu với kẻ thù, thì tỏ ra hết mực yêu thương dân chúng, quý trọng những thuộc hạ cùng sống chết với mình, và lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho họ. Nhưng khi đã lên ngôi vua, thì chẳng bao lâu tính tình ông vua thay đổi, trở nên hống hách, tàn ác, sẵn sàng giết hại thuộc cấp, bóc lột dân chúng. Tôi đã từng gặp những người khi còn là chủng sinh hay tu sĩ thì thật là khiêm nhường, dễ thương, tinh thần phục vụ rất cao, nhưng chỉ một vài năm sau khi làm nên danh này phận nọ, thì tính tình và cách xử sự của họ tự nhiên thay đổi hẳn. Có những cặp vợ chồng trước đám cưới thì thề non hẹn biển, dù thế nào đi nữa cũng quyết chung thủy với nhau trọn đời, thế mà chỉ sống với nhau được vài năm thì đã có người thay dạ đổi lòng. Biết bao nhiêu kinh nghiệm khác tương tự như thế!


Những kinh nghiệm ấy làm tôi không còn dám quả quyết rằng mình sẽ không bao giờ thay đổi. Và cũng không dám kết án những ai thay đổi, làm như thể mình là người không thể thay đổi. Tôi cảm thấy cần phải bao dung, thông cảm cho sự thay đổi của người khác, vì bản tính yếu đuối của con người. Chúng ta hãy xem thái độ của Đức Ki-tô như thế nào đối với Phê-rô, kẻ đã phản bội vì chối Ngài tới 3 lần. Thấy ông hối lỗi, Đức Ki-tô không những đã không phiền trách ông, mà còn tín nhiệm ông hơn nữa, Ngài đã đặt ông làm thủ lãnh của cả nhóm 12 tông đồ.


3. Con người bị giới hạn về đủ mọi mặt và lệ thuộc vào nhiều điều kiện bên ngoài


Dù không sa ngã, nhưng Đức Giê-su đã cảm nghiệm được sự yếu đuối trong thân phận con người của Ngài. Nhờ sự minh mẫn của thần tính, nên với kinh nghiệm về sự yếu đuối ấy, Ngài hiểu rõ hơn ai hết sự yếu đuối và giới hạn của con người. Vì thế, Ngài luôn luôn thông cảm với những lầm lỗi, tính hay thay đổi, sự bất trung của con người. Thái độ của Ngài đối với Phê-rô, đối với những người đàn bà ngoại tình, tội lỗi, được diễn tả bằng thái độ của người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, nói lên sự bao dung đầy tính thông cảm của Ngài. Chúng ta cũng nên tập cho mình thái độ bao dung và thông cảm ấy, nhất là khi chính ta cũng là con người yếu đuối, chẳng dám tự hào mạnh mẽ hơn ai.


Khi tự xét bản thân, tôi thấy có những lúc tinh thần tôi lên rất cao, nhưng cũng có lúc tinh thần xuống rất thấp. Điều này tùy thuộc khá nhiều vào ngoại cảnh. Tinh thần tôi thường lên cao vào những dịp tĩnh tâm, khi được một ai đó khích lệ, hay khi sống gần những người đức hạnh, gương mẫu, v.v... Nhưng tinh thần tôi xuống rất thấp khi sức khỏe tôi suy yếu, khi gặp toàn những thất bại, hay khi gặp quá nhiều khó khăn, thử thách, cám dỗ, v.v... Tôi nhận thấy độ cứng của lương tâm tôi có giới hạn, nó có thể đứng vững trước những cám dỗ bình thường, nhưng có lẽ nó sẽ bị gẫy trước những cám dỗ nặng nề và kéo dài. Có thể tôi không bán rẻ lương tâm với giá 10 triệu, 20 triệu, nhưng rất có thể trước những mối lợi trị giá 100 triệu, 200 triệu, tôi sẵn sàng bán lương tâm của tôi. Quả thật, tôi không dám mạnh miệng tuyên bố là tôi luôn đứng vững. Câu Kinh Thánh "Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã" (1Cr 10,12) khiến tôi không dám tự hào và chê bai hay kết án ai. Biết bao người thiện chí hơn tôi, thánh thiện hơn tôi rất nhiều đã sa ngã. Tôi chỉ còn biết trông cậy vào ơn Chúa, Chúa có gìn giữ tôi thì tôi mới đứng vững, mới không sa ngã, còn tự sức tôi thì thật đáng nghi ngờ.


4. Trong chính bản thân tôi, có hai lực lượng đối kháng nhau


Lúc nào tôi cũng thấy trong tôi có hai lực ngược nhau tác động trên tôi: một lực kéo tôi lên, khuyến khích tôi làm những việc tốt đẹp, cao thượng, vị tha, một lực trì tôi xuống, thúc đẩy tôi làm những chuyện xấu xa, bỉ ổi, ích kỷ. Muốn làm theo lực kéo tôi lên thì tôi phải cố gắng rất nhiều, phải làm ngược lại ý riêng, bản năng, dục vọng của tôi, điều này thật khó. Còn muốn làm theo lực kéo xuống thì tôi cảm thấy rất dễ dàng, thậm chí thật hấp dẫn, chẳng cần phải cố gắng gì cả. Chính vì thế, tôi luôn luôn cảm nghiệm y hệt như Phao-lô: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm" (Rm 7,19).


Như vậy, trong tôi luôn luôn có khuynh hướng xấu, ác. Chính những lúc tôi nghĩ mình yếu đuối, sợ mình không thắng nổi sự ác, nên tôi cậy trông vào Chúa, thì tôi lại không làm điều ác. Nhưng chính những lúc tôi tưởng mình mạnh mẽ, tự cho mình là công chính, nghĩ mình đã hơn được rất nhiều người, tự hào về chính mình, cho rằng mình có khả năng thắng sự ác một cách dễ dàng, thì lại là lúc tôi làm nhiều điều xấu ác, nhiều điều ngu xuẩn, hớ hênh hơn lúc nào hết. Chính vì thế, tôi rất cảm thông với sự yếu đuối khiến người ta thay đổi như những trường hợp đã nói trên.


Cầu nguyện


Lạy Chúa, trong tuần thánh này, xin cho con nhận ra sự yếu đuối và sự dễ dàng thay đổi của con, để con đừng bao giờ tự hào mình mạnh mẽ hơn người, mà luôn trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Xin cho con học được bài học của Phao-lô: chính lúc khiêm nhường tự nhận ra mình yếu đuối, lại là lúc mạnh mẽ nhất vì đã bám vào Chúa.

ĐỨC GIÊSU VÀO THÀNH GIÊRUSALEM
Lc 22, 14-23, 56

Chắc chắn Đức Giêsu đã lên Giêrusalem nhiều lần trong đời Ngài, nhưng thánh Luca đã muốn cô đọng lại thành một cuộc hành trình duy nhất. Dưới cái nhìn thần học của Luca, cuộc đời Đức Giêsu không gì khác hơn là một cuộc hành trình lên Giêrusalem; nơi đây Ngài hiến dâng chính mình để cứu độ nhân loại. Giêrusalem cũng là nơi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và là nơi từ đó Giáo Hội lan rộng khắp hoàn cầu (Lc 24,47). Giêrusalem có chỗ quan trọng trong trái tim Đức Giêsu. Những gì sẽ xảy ra ở đó vẫn thường xuyên canh cánh bên lòng Ngài (12,50). Ngay cả trong lúc Ngài được vinh quang trên núi cùng với Môsê và Elia, thì đề tài trao đổi vẫn là cuộc xuất hành của Ngài sắp được thực hiện ở Giêrusalem (9,31). Tiến về thành đô để chết ở đó, đó là điều Ngài ý thức rõ rệt: "Ta phải theo đuổi con đường của Ta, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, vì không thể nào một ngôn sứ mà lại chết ngoài thành Giêrusalem" (13,33).

Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu "đi đầu lên Giêrusalem" (19,28). Như thế ở vào giai đoạn cuối của cuộc hành trình, Đức Giêsu vẫn có thái độ quả quyết như lúc đầu: "Ngài đanh mặt lại để lên Giêrusalem" (9,51). Đến với Giêrusalem bây giờ là đem thân vào chốn hiểm nghèo, nơi những kẻ thù ghét Ngài đang rình rập để hãm hại. Đức Giêsu đã chuẩn bị tìm cho Ngài một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, một con vật như thế thường được dùng cho mục đích tôn giáo (Ds 19,2; 1S 6,7). Đặc biệt thánh Luca không nhắc đến việc dân chúng cầm cành lá đi rước Chúa như các thánh sử khác. Các môn đệ, chứ không phải đám đông, hân hoan ca tụng Thiên Chúa vì những phép lạ họ đã chứng kiến (x. 18,43; 7,16). Thật ra, đây cũng là những lời ca tụng Đức Giêsu. Ngài được tôn là Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa (19,38). Những người Pharisêu khó chịu trước các lời tung hô đó. Họ muốn Đức Giêsu quở trách các môn đệ của Ngài. Nhưng bây giờ Ngài không bắt các môn đệ phải thinh lặng giữ kín nữa (9,21). Đây là lúc Ngài khẳng định vương quyền của mình. Vương quyền đó phải được công bố, không gì cản nổi: "Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên" (x.Hb 2,11).


Lễ Lá là một lễ vui, nhưng ai có ngờ được giữa lúc Đức Giêsu đang ung dung, hiền hoà, ngồi trên lừa con tiến về Giêrusalem, giữa tiếng tung hô vang trời dậy đất, thì Ngài lại bật khóc (19,41). Ngài khóc khi nhìn thấy thánh đô. Những giọt nước mắt của Ngài hẳn đã làm mọi người chưng hửng. Ngài không khóc vì tủi thân. Ngài khóc vì thấy ngày Giêrusalem bị bao vây, bị triệt hạ thành bình địa. Những giọt nước mắt đầy yêu thương đối với thánh đô mà Ngài coi như máu thịt. Con người có tự do để từ chối ơn cứu độ và Đấng Cứu Độ. Đức Giêsu cảm nhận được thế nào là nỗi đau khi Tình Yêu bị từ chối.


Chắc có những người trong đám đông tung hô hôm nay sẽ trở thành kẻ gào thét đòi đóng đinh Đức Giêsu trước mặt Philatô vài ngày sau đó (23,18.21). Có thể họ bị các nhà lãnh đạo giật dây, có thể họ bị thất vọng khi thấy "Vua Giêsu" chẳng phải là vị vua đem lại sự giải phóng mà họ mong đợi. Khi đi rước lá, chúng ta xin ơn vững bước theo chân Đức Giêsu trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống, trong suốt hành trình về Nước Trời.

CUỘC KHỔ NẠN CỦA ĐỨC GIÊ SU THEO THÁNH LUCA
Lc 22, 14-23, 56

Chúng ta cần sống mầu nhiệm Khổ Nạn của Đức Giêsu trong đời mình. "Vác thập giá của mình hàng ngày mà theo Thầy": đó là định mệnh của Kitô hữu (x.9,24). "Tôi đã cùng chịu đóng đinh thập giá với Đức Kitô"

(Gl 2,19). Không vác thập giá, không chịu đóng đinh, không chết với Đức Kitô, thì cũng chẳng được hưởng sự sống vinh quang với Ngài.
"Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài" (2Tm 2,11).

Trong Tuần Thánh, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu. Bạn cần nhìn thật lâu cách phản ứng của Đức Giêsu trước những đau khổ xảy đến cho Ngài. Thái độ của Ngài có thể làm bạn thay đổi, và lòng bạn mềm lại. Bạn vẫn cảm nghiệm những đau đớn Ngài phải chịu trên thân xác: bị đánh đòn, bị đóng đinh... nhưng bạn đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài. Đôi khi chúng ta tưởng Đức Giêsu là người thánh thiện quá đến nỗi chẳng còn biết xấu hổ, nhục nhã trước những xúc phạm, khinh chê của kẻ thù. Chính Ngài đã cứu độ chúng ta bằng nỗi đau khi Giuđa hôn Ngài bằng nụ hôn phản bội, khi Phêrô chối Ngài ba lần, khi Ngài bị bịt mặt để chơi trò bói xem ai đánh mình (Lc 22,63-65). Chúng ta cần thấm thía nỗi cô đơn của Đức Giêsu đường lên núi Sọ, sự mắc cở của Ngài khi bị lột quần áo, nỗi đắng cay khi bị người qua kẻ lại châm chọc chế diễu. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, không xa lạ với nỗi khổ đau của phận người. Ngài không "giải quyết" mầu nhiệm đau khổ như một triết gia; Ngài đón lấy đau khổ và cho một ý nghĩa, vì Ngài đón nhận nó trong tình yêu. Chúng ta đừng quên cảm nghiệm Tình Yêu của Đức Giêsu ẩn dưới mọi khổ đau Ngài chịu. Và Tình Yêu ấy dành cho từng người chúng ta. Thánh Phaolô đã cảm thấy Đức Giêsu chịu hy sinh là vì mình: "Đấng đã yêu mến tôi và đã phó nộp mình vì tôi" (Ga 2,20). Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu cũng đụng chạm đến bản thân tôi hôm nay.


Cuộc Khổ Nạn như một vở kịch, có nhiều vai diễn. Chúng ta thấy mình có nét nào đó giống với họ, và qua vấp ngã của họ, chúng ta học được nhiều điều.


Trong số các môn đệ, Phêrô là người ở gần Đức Giêsu hơn cả, lúc Ngài ở dinh Thượng Tế. Nhưng ông lại là người xa Thầy. Ông chối không ở với Thầy, cũng chẳng thuộc về nhóm môn đệ của Thầy. Cái nhìn của Đức Giêsu nối lại mối dây tình nghĩa với ông. Chính lúc ông bỏ Thầy mà đi thì ông lại gặp Thầy trong nước mắt (Lc 22,54-62). Chỉ trong hơn một giờ, Phêrô đã chối bỏ ba năm trung tín. Ông đã nói dối, nhưng lời nói dối của ông chất chứa sự thật. Đúng là ông đã tách khỏi Đức Giêsu và các môn đệ khác. Đúng là ông đã trở nên xa lạ với Thầy mình sắp chịu tử hình. Khi nghe gà gáy và thấy ánh mắt của Thầy, Phêrô ý thức mình đã nói thật, và ông khóc.


Philatô là mẫu người không dứt khoát. Ba lần ông khẳng định là Đức Giêsu vô tội, nhưng ông vẫn cho đánh đòn Ngài (23,16). Ông tưởng làm thế là xoa dịu đám đông. Thật ra điều đó chỉ làm lộ ra sự yếu đuối của ông. Đám đông không bỏ lỡ cơ hội, đòi ông phải đóng đinh Đức Giêsu, và ông đã chiều ý họ. Chúng ta không thể vừa muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, vừa muốn làm đẹp lòng người đời. Cái chết của Đức Giêsu tạo ra một sự phân cách giữa những kẻ theo Ngài và những kẻ khước từ Ngài. Mỗi nhóm đều có những người ở hai phe: một tên cướp chế diễu, còn một tên lại tin vào Ngài; các người lính sỉ nhục Ngài, còn viên bách quan lại tôn vinh Thiên Chúa; các nhà lãnh đạo Do Thái nhạo báng Ngài, còn Giuse Arimathia lại dành cho Ngài ngôi mộ mới của mình; các bà từng theo Ngài ở Galilê vẫn theo đến cùng, còn các môn đệ thì chẳng thấy bóng dáng đâu.


Ước gì chúng ta đồng hành với Đức Giêsu trên đường thánh giá, chúng ta cũng đồng hành với nhân loại khổ đau hôm nay. Biết bao người trên thế giới vẫn mang thân phận của Đức Giêsu: bị vu khống, kết án, làm nhục, tra tấn, và bị xóa tên trên mặt đất. Vẫn mãi mãi cần những Simon Kyrênê, vác đỡ thánh giá cho những người đau khổ trên thế giới.

Nguồn vietcatholic.org

6965    23-03-2013 20:25:59