Sidebar

Thứ Tư
22.05.2024

Chúa Nhật XVI Thường Niên B

  1. Dấn Thân Phục Vụ Noi Gương Đức Giêsu
  2. Mục Tử Và Đàn Chiên
  3. Nghỉ Ngơi Trong Chúa
  4. Chúa Nhật 16 Thường Niên - B
  5. Hãy Nghỉ Ngơi
  6. Trái Tim Mục Tử
  7. Thiên Chúa Chăn Dắt Dân
  8. Nghỉ Ngơi Đôi Chút
  9. Viễn Tượng Giáo Hội Chúa Kitô
  10. Chúa Nhật 16 Thường Niên B
  11. Chúa Nhật 16 Thường Niên B
  12. Chúa Nhật 16 Thường Niên B
  13. Chúa Nhật 16 Thường Niên B
  14. Chúa Nhật 16 Thường Niên B
  15. Chúa Nhật 16 Thường Niên B
  16. Chúa Nhật 16 Thường Niên B
  17. Chúa Nhật 16 Thường Niên B

 

DẤN THÂN PHỤC VỤ NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊSU
Mc  6,30-34

1.LỜI CHÚA : "Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều" (Mc 6,34) :

2.CÂU CHUYỆN : ỨNG XỬ KHÔN NGOAN TRONG SỨ VỤ TÔNG ĐỒ

PRI-MƠ-NĂNG (Premanand) là một Ki-tô hữu thuộc tầng lớp quí tộc Ấn Độ, đã ghi lại kinh nghiệm truyền giáo trong cuốn tự thuật sau : "Từ xưa đến nay, sứ điệp được các tín hữu chúng ta nói với anh em lương dân là : "Thiên Chúa luôn ưu ái quan tâm đến hết mọi người. Tôi có một số kinh nghiệm về vấn đề này như sau : Bản thân tôi hay bất cứ ai trong số các linh mục tu sĩ khi giao tiếp với người Ấn Độ có trình độ cao, theo đạo rồi hay chưa, mà lại có thái độ nóng nảy miễn cưỡng... với lý do không có giờ rảnh, hoặc sắp đến giờ cơm hay giờ nghỉ trưa ... thì sau đó chắc chắn tôi sẽ bị mất liên lạc với người ấy, vì họ sẽ bất mãn bỏ đi và không bao giơ quay trở lại nữa !".

PRI-MƠ-NĂNG tiếp tục đề cập đến câu chuyện về một vị giám mục người ngoại quốc lúc đó đang cai quản giáo phận Băng-gan thuộc Ấn Độ như sau : Một hôm, ông PĂNG-ĐI VI-ĐI-SA-GA (Pandit Vidyasagar); sáng lập viên trường cao đẳng Ấn Độ, là nhà cải cách giáo dục và xã hội có tiếng. Ông được các người theo Ấn giáo ở Can-quít-ta (Calcutta) cử đi thăm viếng giao hảo với cộng đồng Giáo hội Công giáo mà vị giám mục là đại diện. Nhưng sự việc đã xảy ra lạu thật đáng tiếc : Vị giám mục đã không trực tiếp gặp gỡ phái đòan, mà chỉ sai linh mục thư ký ra tiếp qua loa, khiến ông PĂNG-ĐI ra về với tâm trạng bất mãn vì nghĩ mình bị coi thường. Sau đó, ông ta đã thành lập một đảng phái tôn giáo lớn, gồm nhiều thành phần xã hội ở Can-quít-ta như quí tộc, trí thức, những người giàu có và có thế lực ... Đảng này thề chống lại Giáo hội Công giáo, và tìm mọi cách ngăn chặn sự bành trướng của Ki-tô giáo tại nước Ấn Độ.

3.SUY NIỆM :

Thật đáng tiếc khi chỉ vì cách ứng xử thiếu khôn ngoan tế nhị của người có trách nhiệm trong Giáo hội mà một cơ hội thuận lợi cho việc truyền giáo đã bị bỏ qua ! Chính do thái độ câu nệ hình thức và quan liêu của một vị mục tử đã biến một con người đang có thiện chí muốn giao hảo trở thành một kẻ thù nguy hiểm cho Hội thánh sau này. Ngày nay vẫn không thiếu những cách xử sự cứng nhắc vụ luật, thiếu cảm thông và thiếu bác ái của một vài vị mục tử, trái với thái độ dấn thân phục vụ và biết "chạnh lòng xót thương" của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Người không nặng lời trách mắng và từ chối những người tội lỗi công khai đến với mình, không ngại tiếp súc và tận tình phục vụ những người nghèo hèn đau khổ và bất hạnh. Người lắng nghe các môn đệ báo cáo công tác đã thực hiện được và sẵn sàng thay đổi dự định nghỉ ngơi để tiếp tục việc rao giảng và chữa bệnh cho nhiều người, vì "họ như bầy chiên không người chăn dắt". 

a)Ấn cần phục vụ:

Đức Giêsu luôn quên mình để nghĩ đến người khác. Người rất nhạy cảm trước những nhu cầu của dân chúng và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu chính đáng của họ để giúp họ tin vào Tin mừng. Mỗi người chúng ta, đặc biệt là những ai có nhiệm vụ chăm sóc cộng đòan, tuy cần phải tổ chức sắp xếp sinh họat theo thời khóa biểu hợp lý, nhưng phải ưu tiên cho việc loan báo Tin mừng. Tránh lối hành xử quan liêu, cứng nhắc và thiếu bác ái ... vì dễ gây bất mãn có hại cho sứ vụ loan Tin mừng.

b)Cảm thông phục vụ:

Đức Giêsu luôn tỏ ra thái độ cảm thông với nỗi đau của con người : Người khóc thương thành Giê-ru-sa-lem sắp bị hủy diệt (Lc 19,44), Ngừơi cảm thông với tiếng khóc của bà góa đang đưa xác con trai đi chôn tại thành Na-im và đã phục sinh người con trai mới chết cho bà (Lc 7,11-17); Người khóc thương bạn thân Lazarô mới chết bốn ngày và truyền cho anh trỗi dậy ra khỏi mồ (Ga 11,1-14)... Đức Maria cũng có thái độ cảm thông với đôi tân hôn thành Ca-na khi tiệc cưới nửa chừng hết rượu. Mẹ đã đứng ra cầu bầu xin Đức Giêsu can thiệp giúp đôi tân hôn (x. Ga 2,1-11). Thánh Phaolô cũng dạy các tín hữu phải biết cảm thông phục vụ tha nhân như sau :"Vui với người vui, khóc với người khóc"(Rm 12,15).        

c)Dấn thân phục vụ: 

Đức Giêsu luôn quên mình khi phục vụ tha nhân: Người sẵn sàng đi đến nhà ông trưởng hội đường tên Giai-rô để chữa cho con gái của ông ta sắp chết (Mc 5,21-24.35-43). Người sẵn sàng đến nhà viên đại đội trưởng ngọai giáo để chữa bệnh cho đầy tớ của ông ta. Người dành tòan bộ thời giờ cho công việc rao giảng Tin mừng và chữa mọi bệnh họan tật nguyền trong dân... Thái độ hy sinh quên mình phục vụ tha nhân thật không dễ chút nào. Chỉ khi có tình thương thực sự, chúng ta mới có thể dấn thân phục vụ tha nhân hết mình. Chẳng bạn các bà mẹ đang nuôi con thơ, không nề hà thức dậy nhiều lần trong đêm khi con khóc để phục vụ, sẵn sàng nằm vào chỗ ướt để nhường chỗ khô cho con, sẵn sàng thay đổi dự tính khi con bị đau ốm... Mỗi người chúng ta cần phải phục vụ tha nhân thế nào để noi gương mục tử Giêsu ?

4.THẢO LUẬN : Một thanh niên kia tính tình ngang bướng đã gặp nhiều khó khăn khi tiến hành thủ tục hôn phối. Sau khi lấy được vợ, anh luôn cảm thấy uất ức và căm ghét đạo Công giáo, đặc biệt là các vị mục tử. Anh cho biết lý do bỏ đạo như sau :"Tôi đã gặp bao nhiêu phiền hà về thủ tục hành chành nơi các viên chức ngòai đời. Hy vọng sẽ gặp được thái độ khoan dung nhân ái nơi các vị mục tử trong đạo. Nhưng một lần nữa tôi lại gặp phải bao nhiêu rắc rối phiền hà về thủ tục hành chánh trong đạo !" Từ đó anh không thèm đi nhà thờ dự lễ Chúa Nhật mà đưa vợ con đến các buổi giảng Thánh kinh tại nhà thờ Tin Lành gần đó. Về sau, khi được một bà cô đạo đức khuyên bảo thì anh đã trả lời như sau : "Cháu cám ơn cô đã khuyên bảo. Nhưng từ nay xin cô đừng bao giờ nói về đạo với cháu nữa. Vì từ khi cháu bỏ được cái đạo Công Giáo này, cháu cảm thấy tâm hồn thật thoải mái bình an, giống như trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân. Xin cô thông cảm và cho cháu được tự do theo ý cháu muốn !".

1-Theo bạn, lý do chàng thanh niên trong câu chuyện trên nêu ra để biện minh cho việc bỏ đạo là đúng hay sai ? Tại sao ? 2- Bạn sẽ phản ứng thế nào nếu gặp phải hòan cảnh như chàng thanh niên trên để chứng tỏ bạn có một đức tin trưởng thành ?

5.NGUYỆN CẦU

Lạy Chúa Giêsu, hiểu biết, cảm thông và chia sẻ nỗi đau của tha nhân, chính là bổn phận của mỗi người tín hữu chúng con hôm nay. Ơn gọi của chúng con là phải trở nên khí cụ bình an của Chúa, là biết đi bước trước đến với tha nhân, hiểu biết cảm thông với những tâm tư nguyện vọng của họ để phục vụ với tình yêu thương như Chúa. Con muốn sống đời bác ái chia sẻ và phục vụ theo lời dạy của Chúa. Xin hãy mở mắt con để nhìn thấy những người đang đói cơm bánh vật chất, đang khát nghe giảng Tin Mừng hầu sẵn sàng đáp ứng với hết khả năng của con. Xin giúp con luôn biết "chạnh lòng xót thương" để nên gióng Chúa từ bi bao dung nhân hậu, nhờ đó con sẽ tích cực góp phần, đưa được nhiều người về làm con Chúa trong gia đình Hội thánh.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con

LM ĐAN VINH  www.hiephoithanhmau.com

MỤC TỬ VÀ ÐÀN CHIÊN
Mc 6, 30 - 34

Người Việt nam chúng ta không làm nghề chăn chiên, nên ít có ấn tượng về hình ảnh sống động và mối liên hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. Ở nước Do thái thời Chúa Giêsu thì khác, hình ảnh đàn chiên và chủ chăn rất quen thuộc. Môsê và các tiên tri đã dùng hình ảnh này để tiên báo về lời hứa cứu độ, về những mục tử tốt lành Chúa sẽ ban cho dân Chúa.

Từ sau thời Vua Salomon trở đi, không được mấy ông vua vừa lòng dân, nhiều vị vua sống ích kỷ, không màng chăm lo cho đất nước và dân tộc, làm cho dân chúng thất vọng về chế độ Quân Chủ. Trong thời gian đất nước chia đôi, và nhất là thời kỳ lưu đày, bị đô hộ, dân Israel càng mong mỏi có được vị vua công minh, vị mục tử nhân lành như lời Chúa đã hứa qua Môsê và các tiên tri: Chúa sẽ cho xuất hiện một Vị Tiên Tri lớn như Môsê, một Vị Cứu Tinh đem lại hoà bình cho trăm họ. Chính Tiên tri Giêrêmia cũng nhắc lại lời hứa của Chúa cho dân nghe: Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền, Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "ĐỨC CHÚA, sự công chính của chúng ta."

Lời Chúa hứa qua miệng tiên tri Giêrêmia đã được thực hiện. Đó là chính Đức Giêsu, thuộc dòng dõi vua Ðavid. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, không phải bằng bạo lực, quyền hành kiểu thế gian nhưng bằng tình thương, lòng nhân hậu, bằng hy sinh, phục vụ hết mình vì hạnh phúc và hoà bình của nhân loại. Ngài là vị vua, là mục tử tốt lành. Ngài đến không phải để tìm lợi lộc cho chính mình nhưng tìm lợi ích cho tha nhân, cho mọi người chúng ta. Ngài là mục tử tốt lành, biết xót thương, biết sống vì người khác. Chẳng hạn, như trong bài Phúc âm hôm nay: dù Chúa Giêsu và các tông đồ đang có nhu cầu nghỉ ngơi, nhưng thấy đoàn lũ dân chúng kéo đến thì không kể mệt mỏi, cực nhọc đã tiếp tục giảng dạy, ban bố ơn lành cho họ.

Đức Giêsu vì chúng ta mà chết trên thánh giá để giải gỡ chúng ta khỏi xích xiềng tội lỗi và sát nhập chúng ta vào đoàn chiên của Ngài. Vậy, để đáp lại sự lo lắng và công ơn cứu chuộc đó, chúng ta phải làm gì cho đẹp lòng Ngài được vui. Tôi nghĩ, điều đẹp ý Ngài là:

1) Mọi người biết tuân giữ lời Chúa đã dạy. Đó là những điều rất ích lợi cho phần hồn và cả phần xác chúng ta nữa. Mọi người hãy luôn tỏ lòng yêu mến Chúa qua việc đi lễ đọc kinh mỗi ngày, ít là lo giữ ngày Chúa nhựt, thương mến và sống hoà thuận với mọi người chung quanh chúng ta vì mọi người là con cùng một Cha trên trời.

2) Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu vô biên, chúng ta cũng hãy yêu Chúa hết mình mới tương ứng phần nào với tình yêu Chúa. Đó là lẽ phải mà mọi người cần thực hiện ngay trên trần gian này. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy sẵn sàng đón tiếp mọi người, nhất là những sứ giả của Chúa: như quý linh mục, tu sĩ. Và vì lòng mến Chúa, chúng ta cũng giúp đỡ những người nghèo khổ vốn không có khả năng trả ơn chúng ta để chính Chúa sẽ trả công bội hậu cho chúng ta sau này.

Lạy Chúa Giêsu là Mục tử tốt lành, xin cho chúng con nhận ra tình yêu Chúa đối với chúng con và biết đáp trả cho cân xứng phần nào với tình yêu đó.

NGHỈ NGƠI TRONG CHÚA
Mc 6, 30 - 34

"Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói" hay "Nhàn cư vi bất thiện". Ðây là hai câu nói lên giá trị sự siêng năng làm việc. Sống là phải làm việc, làm việc không ngừng. Dầu vậy không ai trong chúng ta có thể làm việc suốt ngày suốt đêm mà không cần nghỉ ngơi. Mục đích của nghỉ ngơi là để bồi dưỡng lấy lại sức khỏe thể xác cũng như tâm hồn. Nhờ đó mà những công việc tiếp theo có thể đem lại hiệu quả cao hơn.

Sau một thời gian ra đi truyền giáo theo lệnh của Thầy Giêsu, các Tông đồ trở về vui mừng hớn hở kể lại cho Thầy nghe những gì mình đã làm và đã giảng dạy. Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." (Mc 6, 31). Chúa Giêsu muốn các ông nghỉ ngơi sau thời gian mệt mỏi ra đi truyền giáo. Có thể nói được là các ông được nghỉ trong Chúa.

Nghỉ ngơi trong Chúa, ta sẽ được bồi dưỡng đầy đủ chất bổ dưỡng. Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân hiền nuôi dưỡng các con chiên của mình trong đồng cỏ xanh tươi và suối mát trong lành. Người đã có lần kêu mời: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11, 28)

Quả vậy, Người biết rõ chúng ta cần gì ngay cả trước khi chúng ta cầu xin. Ðiều răn thứ ba trong Mười điều răn Ðức Chúa Trời dạy chúng ta giữ ngày Chúa nhật. Ðồng thời, mỗi ngày chúng ta được Giáo hội dạy tuân giữ các giờ Kinh tối sáng. Cũng vậy, các Linh mục và tu sĩ hằng năm đều có thời gian tĩnh tâm mà chúng ta quen gọi là cấm phòng. Ðây là những khoảng thời gian thật cần thiết và quý báu cho đời sống đức tin. Nếu biết rõ được ý nghĩa và giá trị của những khoảng thời gian này chắc hẳn chúng ta sẽ không cho đó là gánh nặng phải tuân giữ. Ngược lại chúng ta sẽ rất trân trọng.

Cuộc sống càng tiến bộ bao nhiêu thì dường như nhu cầu cần sự nghỉ ngơi của con người càng nhiều bấy nhiêu. Ðáng tiếc thay có nhiều người lại lấy thời gian nghỉ ngơi này để làm hại chính mình và nhiều khi ảnh hưởng đến người khác. Những sòng bài, những nhóm ăn nhậu hay những nhóm trẻ ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Ðây là những lúc họ tự hủy hoại chính bản thân mình và gây thiệt hại đến người khác. Nhất là đây là một trong những lý do khiến cho nhiều gia đình phải tan vỡ.

Là người có đức tin chúng ta hãy biết quý trọng những thời gian nghỉ ngơi trong Chúa. Cũng như chúng ta nhắc nhở nhau tìm những trò giải trí lành mạnh hầu đem lại lợi ích cho mình và tránh gây thiệt hại cho người khác.

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - B
Mc 6, 30-34

Hôm nay chúng ta suy gẫm về Chúa Giêsu trong tư cách Người là Mục Tử của chúng ta.

Chúa Giêsu sai mười hai tông đồ ra đi rao giảng. Họ ra đi để thực hiện công việc Chúa đang làm : "Rao giảng về Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ, chữa lành cho các bệnh nhân". Khi trở về, họ hết sức phấn khởi về các việc họ đã làm. Nhưng Chúa Giêsu thấy họ cần phải cẩn trọng. Họ đang ở trong sự thành công, họ không còn thời giờ để nghỉ ngơi. Vì vậy, Chúa bảo họ : "Các con hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút".

Vị mục tử hoạt động có hiệu quả không phải là người chỉ biết có làm việc mà thôi. Chúa Giêsu biết rõ sự làm việc quá độ sẽ dẫn đến kiệt sức. Vị mục tử nhân lành bảo các môn đệ đi nghỉ ngơi đôi chút. Một sự nghỉ ngơi không chỉ để dưỡng sức phần xác mà còn để cho tâm hồn được bồi dưỡng nữa. Phải rời khỏi đám đông ồn ào, đến nơi thanh vắng để có thể chú tâm đến sự hướng dẫn của Thánh Thần. Đây là mục đích của việc suy niệm hàng ngày, cầu nguyện trong thinh lặng trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Người môn đệ của Chúa Giêsu cần có một khoảng thời gian tách khỏi những công việc thường ngày và đi đến nơi thanh vắng để tĩnh tâm, để nhìn lại mục đích cuộc đời của mình. Chúa Giêsu từng đi lên núi một mình để hiệp thông với Chúa Cha trong thinh lặng của ban đêm. Mọi vị hướng dẫn các linh hồn đều cần hiệp thông với Thiên Chúa trong thinh lặng để được đón nhận sức sống từ Thiên Chúa.

Dân chúng cũng muốn được ở với Chúa Giêsu. Họ đi bộ vội vã đến nơi trước Chúa. Họ đói khát lời của Thiên Chúa và Chúa Giêsu không thể từ chối họ. Chúa biết nhu cầu của họ và Người giảng dạy cho họ. Bởi vì Chúa Giêsu luôn ở với Chúa Cha, nên các lời giảng dạy của Người đã nuôi dưỡng dân chúng bằng những chân lý phát xuất từ Thiên Chúa, những lời làm cho dân chúng trưởng thành hơn và được tự do. Chúa Giêsu là vị mục tử đích thật, là Đấng Mêsia.

Nhóm mười hai đang say men chiến thắng và đang nôn nóng hoạt động. Họ đang ngây ngất với thành công và uy tín. Họ đang ở trong một mối nguy hiểm. Họ muốn ở lại giữa đám đông, vì họ đang lôi kéo được sự chú ý của dân chúng, họ không còn chú tâm đến Chúa Giêsu nữa. Chúa Giêsu là vị mục tử phải chăm sóc không chỉ cho dân chúng mà thôi, nhưng còn quan tâm đến các vị mục tử tương lai nữa. Các vị mục tử phải là "các tôi tớ phục vụ Lời", nếu họ muốn trung thành với sứ vụ của họ. Vì thế, họ cần phải hiệp thông với Chúa Giêsu, Thầy của mình.

Lạy Chúa Giêsu, là Mục Tử tối cao, xin dạy con đường lối của Chúa.

HÃY NGHỈ NGƠI
Mc 6, 30 - 34

Sau những ngày ra đi mọi nơi làm việc truyền giáo, loan báo Nước Trời, các môn đệ đã gặt hái được nhiều thành quả thật tốt đẹp. Người ta có thể ví được đây là lúc vàng son của các môn đệ. Do đó, các Ngài trở về gặp Chúa Giêsu và sung sướng kể lại cho Thầy của mình nghe mọi việc các Ngài đã làm được, mọi thành công các Ngài đã gặt hái. Chúa Giêsu sau khi nghe các môn đệ trình bầy sự việc, kể lại những thành tựu tốt đẹp họ đã gặt hái trên đường truyền giáo. Chúa Giêsu đã khuyên các Ngài hãy rút lui vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện và nghỉ ngơi...

Các môn đệ được Chúa cho ra đi các nơi thực tập truyền giáo.Nhờ học hỏi nơi Chúa Giêsu, nhờ sự nâng đỡ của Ngài và sự tác động của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã gặt hái hết thành công này tới thành công khác.Sự thành công của các môn đệ ngoài dự tưởng của các Ông bởi vì có những người nhờ lời giảng dạy của các Ông đã tìm được Chúa, có những người, các môn đệ đặt tay đã làm cho họ được khỏi bệnh, có những người bị quỷ dữ hành hạ đã được các môn đệ cứu sống.Các môn đệ quả thực đã rất hạnh phúc và thành công. Trong cuộc đời làm môn đệ, có lẽ không lúc nào các Ông cảm thấy hãnh diện và sung sướng bằng lúc này vì những thành công tới với các Ông một cách rất dễ dàng và xem ra thật nhẹ nhàng. Những thành công này có lẽ đã làm cho các Ông quên đi những điều căn bản nhất Thầy mình đang muốn các Ông phải tuân thủ, vâng lời.


Vâng, làm gì không hạnh phúc bằng những công việc của các môn đệ Chúa được người ta đón nhận và những thành quả truyền giáo ấy như là những việc vàng son nhất của của môn đệ ? Chính vì thế, các môn đệ đã rất phấn khởi thuật lại những kết quả xem ra rất thành công của các Ongcho Chúa Giêsu nghe. Chúa hiểu tường tận những thành quả của các môn đệ, nhưng Ngài lưu tâm đến con người của các môn đệ hơn các công việc. Chúa muốn các môn đệ hãy lánh xa sự ồn ào, tránh xa dân chúng, Ngài muốn các môn đệ nghỉ ngơi bởi vì công việc nhiều ngày qua đã làm các ông quá vất vả, quá mệt mỏi, Chúa muốn các Ông để cho tâm hồn yên tĩnh, lắng đọng để Thầy và trò được sống trong sự thân mật tri giao và để Thầy và trò có dịp hàn huyên rút ra những ưu khuyết điểm, những gì cần phải củng cố, những gì cần phải phát triển vv...Việc Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải nghỉ ngơi, phải cầu nguyện, phải rà soát lại công việc quả thực rất cần thiết. Có rà soát công việc, có thẩm định lại những biến cố để cho tâm hồn tĩnh lặng và để Chúa nói những việc đó mới thật cần thiết. Chúa muốn cho các môn đệ của Ngài yên tĩnh, lắng đọng tâm hồn và giãn xả nghỉ ngơi là để công việc truyền giáo còn dài càng ngày càng tốt đẹp hơn.

Ngày nay, thế giới càng lúc càng văn minh, tiến bộ, người ta thích ồn ào hơn thích yên lặng để nhìn lại những gì đã làm được. Người ta thích nhìn thấy những thành công trước mắt hơn là thích suy tư, suy nghĩ vv...Sự ồn ào bên ngoài nhiều khi lấn át tất cả những gì thâm sâu. Đức Hồng Y Etchaygaray đã nói một câu rất chí lý: " Người ta dễ nghe thấy tiếng cây đổ hơn làtiếng tí tách của hàng triệu triệu những hạt mầm đang cố ngon lên khỏi mặt đất ". Những thành tựu trước mặt con người dễ nhận ra hơn là những cố gắng đã phải mất biết bao thời gian ấp ủ mới đi tới thành công. Đường vào Nước Trời là đường hẹp bởi vì Chúa đã nói: " Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy "...Muốn đi xa cần phải dừng bước để ngơi nghỉ và rồi lại tiếp bước.Muốn học tốt phải có kế hoạch, có thời giờ hợp lý. Muốn tới đích phải có định hướng vv...

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết bắt chước Chúa biết lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Xin cho chúng con đừng tự phụ với những thành công gặt được và cũng đừng chán nản với những thất bại ê chề, nhưng biết dừng, biết lắng đọng tâm hồn để nghe tiếng Chúa chỉ bảo. Amen.

Giuse Nguyễn Hưng Lợi

TRÁI TIM MỤC TỬ
Mc.6,30-34

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng : làm con cái Chúa thì hạnh phúc biết bao vì luôn luôn được Chúa quan tâm săn sóc, Người để ý đến từng con chiên. Các mục tử nhà Israel không chăm lo cho chiên liền bị Chúa quở trách và Ngài đích thân chăm nom họ (Gr.23,1-6). Người là vị mục tử nhân lành che chở chiên khỏi sói dữ, trộm cướp và lo cho chiên có cỏ non, nước ngọt, bóng mát(Tv.22). Đặc biệt trong bài đọc II(Ep.2,13-18) thánh Phaolô còn cho các tín hữu Ephêsô biết rằng, họ là những con chiên bị tản mác và nay Thiên Chúa yêu thương qui tụ họ về trong một đoàn chiên, để họ được ấp yêu, được nuôi dưỡng. Và Chúa Giêsu còn cho thấy không phải Thiên Chúa chỉ chăm sóc đến chiên " thấy họ vất vưởng Người chạnh lòng thương"(), mà còn lo cho cả kẻ chăn chiên " các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút"()

Chúa Giêsu sai 12 tông đồ đi rao giảng, các ông vui mừng trở về kể lại những thành công gặt hái được và những vất vả các ông phải chịu, thì Chúa Giêsu liền bảo các ông xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, nhưng khi thấy dân chứng nô nức tìm kiếm, thì kế hoạch nghi ngơi phải đình chỉ vì tình yêu đã thắng tất cả. Người dịu dàng nhân ái dạy dỗ họ bởi trái tim Người không thể yên nghỉ, con tim mục tử của Người thổn thức trước cảnh bơ vơ không người chăm sóc, mặc dầu Người cũng rất cảm thương các tông đồ mệt nhọc cần bầu khí yên tĩnh để thân xác nghỉ ngơi và tinh thần được thư giãn hầu kiểm điểm cuộc sống của mình, nhưng điều cần kíp giúp chiên khỏi chết trước đã, sau đó có thể lui vào yên tĩnh.


Chúng ta phải vui mừng vì được làm con chiên của Chúa, được chăm sóc dưới bàn tay nhân ái và trái tim giầu tình thương của Chúa, và Người biết chúng ta cần gì để cung cấp cho chúng ta. Mỗi người chúng ta cũng phải có trái tim nhạy cảm của Chúa, biết xúc động trước những người đau khổ của tha nhân để giúp đỡ, để an ủi và có thể hiến thân phục vụ tha nhân với trái tim tràn đầy hương vị ngọt ngào. Thế giới đang mong mỏi những bàn tay bọc nhung để xoa dịu những đớn đau của bệnh tật, những mất mát của chiến tranh và những lời khích lệ tới những tâm hồn đang thất vọng sầu khổ.


Và như các tông đồ chúng ta cũng sẵn sàng làm việc mà không thấy mỏi mệt, hay đúng hơn vì tình yêu đã làm cho các ông không muốn nghỉ ngơi. Chúng ta cũng phải có tấm lòng như thế, đừng ngại bị xáo trộn nếp sống hàng ngày của mình, sẵn sàng gác qua một bên những dự định của mình để phục vụ người khác. Chúa Giêsu bận rộn với biết bao công việc đến nỗi không có giờ để ăn uống, dự tính nghỉ ngơi một chút thì dân kéo đến và Người đã "dạy dỗ họ nhiều điều"(). Chúng ta đôi khi cũng muốn làm việc phục vụ nhưng lại chỉ muốn chút ít thôi để việc phục vụ không quấy rầy chương trình của mình, chúng ta đã chẳng thấy đang đêm cha mẹ cũng phải thức dậy để chăm sóc các con đấy sao mà có ai than phiến?


Tuy nhiên trong việc tông đồ chúng ta cũng cần phải có những thời gian nghỉ ngơi, hãy tạm quên đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, để chuyện vãn với Chúa nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả! Với công việc tông đồ chồng chất nhiều khi chúng ta quên mất việc nghỉ ngơi lấy sức. Cần thinh lặng để thẩm định lại những biến cố và rà soát lại những công việc đã làm cùng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Nên nhớ rằng chúng ta đang trên đường lữ hành về trời, con đường vừa hẹp vừa dốc nếu không nghỉ ngơi lấy sức thì không thể đến đích.


Lạy Chúa, xin tình yêu Chúa hãy nên lẽ sống và niềm vui, hi vọng cho chúng con, để khi chúng con sống gắn bó với Chúa thì chúng con cũng biết quên mình phục vụ tha nhân. Nhờ đó chúng con có thể sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu trong việc thông chia cho người khác những gì mình sống.

Sr Mai An Linh OP

THIÊN CHÚA CHĂN DẮT DÂN
Mc.6, 30-34

Khi từ thuyền bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì Ngài động lòng thương vì họ như chiên không người chăn dắt, và Ngài đã dạy dỗ họ. Dân chúng mong chờ khao khát điều mà họ thiếu, nay gặp Đức Giêsu và các môn đồ, họ như thể tìm được điều họ mong ước, nên họ tuôn đến với Đức Giêsu. Thiên Chúa cần những con người cụ thể để chăn dắt dân Ngài.

1. Ta sẽ đem chúng trở lại đồng cỏ


Tiên tri Giêrêmia sống vào thời trước và trong khi dân Do Thái bị lưu đầy. Trước thời lưu đày, dân Do Thái có tất cả những cơ cấu cần thiết, gồm những người có quyền đại diện Thiên Chúa mà cai quản, dạy dỗ dân chúng: vua, tư tế và tiên tri. Hai tiên tri lớn thời này là Giêrêmia và Edêkiel. Tuy nhiên, những người lãnh đạo thời đó là vua quan và tư tế thì lại đi tìm lợi ích và thỏa mãn riêng của họ; nên dân chúng chán nản không còn có thể tin vào những người lãnh đạo được nữa, và họ bị lạc lối và tán loạn.


Thiên Chúa đã nói qua tiên tri Giêrêmia: "khốn cho các mục tử đã để đàn chiên của Ta bị tan hoang và phân tán...; tuy nhiên Ta sẽ quy tụ chúng từ những nước Ta đã phân tán chúng; Ta sẽ mang chúng trở lại đồng cỏ". Vì những lỗi lầm của những người lãnh đạo chăn dắt, dân chúng đã phải phân tán lưu đày; nhưng chính Thiên Chúa sẽ là Đấng quy tụ và đem dân trở về. Thiên Chúa sẽ đem con người trở về với Thiên Chúa cho dù con người hiện tại có bị lạc xa đường lối của Thiên Chúa.


"Ta sẽ làm chỗi dậy một nhành cho David, và vị này sẽ chăn dắt dân như một vị minh vương". Thiên Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt con người qua những trung gian của Ngài. Ngài sẽ cho chỗi dậy những con người như lòng Ngài mong ước để chăn dắt dân của Ngài. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người như hiện tại, là Ngài đã muốn dùng cơ cấu vật chất- tinh thần, trung gian hữu hình để ở với và nói với con người của mọi thời đại.


2. Đức Giêsu động lòng thương dân như chiên không người chăn


Sau hơn ba mươi năm tháng dài ở Nadarét, Đức Giêsu đã rong ruổi khắp đất nước Do Thái để rao giảng. Ngài thu nhận môn đệ, và giữa các môn đệ Ngài tuyển chọn nhóm 12, để chuẩn bị cho sứ vụ rao giảng sau này. Tin Mừng Mác-cô cho thấy Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng, và các ông đã trở về với bao kết quả đáng mừng. Dân chúng đổ xô đến cùng các ngài, đến độ các ngài không còn thời gian để ăn và nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe cần thiết.


Đức Giêsu khuyên các tông đồ hãy tìm chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi. Ở đây một lần nữa người ta thấy Đức Giêsu cũng tôn trọng nhịp sống của con người: làm việc và nghỉ ngơi, kể cả đối với những công việc quan trọng như việc tông đồ. Dường như nhu cầu tông đồ không bao giờ cạn; người được sai phải làm bổn phận của mình, nhưng cũng cần phải có thời gian để yên lặng, để sống với Thiên Chúa cho chính mình, để thân xác hồi lại sức lực. Tôn trọng cơ cấu con người, cũng là tôn trọng Thiên Chúa.


"Khi Đức Giêsu ra khỏi thuyền và lên bờ, Ngài thấy dân chúng đông đảo nên động lòng thương vì họ như chiên không người chăn, và Ngài giảng dạy họ nhiều điều". Đức Giêsu vẫn để các tông đồ có thời gian nghỉ, và lúc này chính Ngài dạy dỗ dân chúng. Đức Giêsu, hơn ai hết, Ngài nhận ra nhu cầu của dân chúng, của con người cụ thể. Ngài biết điều gì là thực sự cần thiết cho con người, Ngài đã làm và huấn luyện các tông đồ để họ tiếp tục sứ mạng của Ngài ở trần gian.


3. Con người hôm nay như dấu chỉ thời đại


Khi những người lãnh đạo dân không sống đúng với ơn gọi của họ, dân chúng bị phân tán vì họ không tìm thấy nơi những vị đó điều họ mong ước hy vọng. Con người luôn cần những người lãnh đạo tinh thần. Và ngược lại, nếu dân chúng phân tán như một sự kiện, thì những người lãnh đạo tinh thần cũng cần xét lại xem họ có đáp ứng nhu cầu thực sự của con người thời đại không.


Ngày nay, ở châu âu và ngay cả ở Mỹ, người ta ít đến nhà thờ; những người trẻ không tìm thấy ý nghĩa nơi nhà thờ. Nhà thờ ở Ý và nhiều nước ở châu âu trở thành "bảo tàng viện", nơi các du khách tìm đến để xem những kiến trúc xa xưa, những hình ảnh phản ánh văn hóa một thời đại. Phụng vụ ở nhiều nơi chỉ gồm những nghi thức nhưng nội dung giảng dạy thì không được chú ý; cả một số nơi người ta cố gắng đổi hình thức nhưng lại không cố gắng để có nội dung sâu xa, và như vậy không cuốn hút được người trẻ, vì họ không tìm thấy nơi đó của ăn sức sống tinh thần, hay điều họ thâm sâu mong ước.


Những mục tử chân chính phải xét lại cách rao giảng của mình, xem mình và Giáo Hội có đáp ứng nhu cầu của con người ngày nay, đặc biệt là các người trẻ hôm nay không, hơn là chỉ nói: con người ngày nay không muốn đến nhà thờ nữa, hoặc con người ngày nay không còn có tinh thần đạo đức nữa. Làm sao có thể đòi họ đến nhà thờ khi họ không thấy ý nghĩa, khi họ không tìm thấy nơi đó có sức sống hay của ăn nuôi dưỡng họ và làm cho họ lên tinh thần. Thiển nghĩ, con người của mọi thời đại đều tốt, và cũng đang được Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy. Người mục tử chân chính ngày nay phải làm sao để giúp con người hiện tại gặp gỡ Thiên Chúa, điều mà con người của mọi thời đại đều mong ước. Có lẽ Giáo Hội cũng phải xét lại cách huấn luyện những mục tử tương lai, sao cho những người này có thể nghe được và nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa qua con người ngày nay, qua thao thức và khát vọng của họ. Làm sao phụng vụ, những bài giảng, phải là lương thực nuôi dưỡng con người ngày nay. Nếu những người trẻ ngày nay không muốn tới nhà thờ, thì đâu là điều người trẻ hôm nay mong ước mà Giáo Hội cần khám phá và đáp ứng.

LM Phạm Thanh Liêm, SJ

NGHỈ NGƠI ĐÔI CHÚT
Mc. 6, 30-34

Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo : "Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.

Chúng ta phải công nhận Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem : có khi nào người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác không ? Làm vậy người chủ sẽ được lợi lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa mạnh hơn con người nhiều, nhưng chúng ta cao quý hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công việc ? Tại sao chúng ta quý trọng sức khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của mình ?


Làm bất cứ công việc gì cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta hay quên chúng ta có thể xác, nó là một bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ được sử dụng theo một chừng mực nào đó thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu chúng ta không chết yểu, chắc làm việc cũng không đắc lực bao nhiêu.


Vì thế, nghỉ ngơi sau khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai cũng kinh nghiệm điều này : mỗi khi đi đâu xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc, chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa, nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự nhiên không tốn tiền, nên người ta còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt mỏi nữa.


Chúng ta cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem : có phải cuộc đời chúng ta và hầu hết thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn, nghề nghiệp hoặc những công việc linh tinh, không tên tuổi chiếm hết không ? Ban ngày làm việc, tối về lại nghĩ đến việc làm : mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã với mọi thứ việc. Chúng ta ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày xưa : ngoài những công việc cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc phải lưu tâm tới vấn đề thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong dong thoải mái. Cứ ngày ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì ngồi lại với nhau uống trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.


Chúng ta bây giờ thì khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở sở làm thì sốt ruột trông cho mau được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này việc khác. Người ta có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày nào cũng thế, cũng những việc ấy, cũng những vất vả ấy, cũng mệt nhọc ấy...Có khi chúng ta làm việc đến quên mình và có thể quên cả Chúa luôn.


Vì thế có người nói rằng : khuyết điểm lớn nhất của thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở thành phố, là không biết nghệ thuật nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông núi nọ. Làm việc này chưa xong đã thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương lai mà không biết sống cho hiện tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc những chứng bệnh : mất ngủ, nhức đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị huyết áp cao, và hình như có nhiều người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng khùng nữa...


Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta : không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng : đã đành làm việc rồi cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm mà nghỉ là người lười.


Vì vậy, "Hãy nghỉ ngơi đôi chút" như Chúa Giêsu nói, không phải là một việc hao phí thời giờ. Trái lại, đó là một lối bồi dưỡng tinh thần : nghỉ ngơi để cho thể xác và tinh thần được thư giản, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu rõ chân giá trị của cuộc sống và ý nghĩa thâm thúy của đời người.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

VIỄN TƯỢNG GIÁO HỘI CHÚA KITÔ
Mc 6, 30-34

Viễn tượng của Giáo Hội duy nhất mà Chúa Giêsu tiên báo trong đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 6, 30-34 gợi cho dân Chúa nhiều suy nghĩ sâu sắc. Hình ảnh nói đến đoàn chiên không người chăn dắt là hình ảnh của Giáo Hội còn bị chia năm sẻ bảy, còn sống rải rác, tản mác thành nhiều khối. Đức Kitô đau buồn, suy tư về viễn ảnh đàn chiên trở nên một cũng là hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô hôm nay.

Đức Kitô đã đến trần gian, sự hiện diện của Người nói lên tình thương bao la của Người đối với thế giới, nhân loại và con người. Chúa Giêsu đã sống giữa con người, sống hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã tham dự vào mọi biến cố của con người, mọi trạng huống của lịch sử con người. Nhiều người đã nhận ra Ngài, nhiều người đã tôn kính mến phục Ngài, nhưng còn biết bao người sống giữa Ngài, bên Ngài, từng tiếp xúc với Ngài, nhưng không bao giờ nhận ra Ngài. Thậm chí có người còn khinh chê, phỉ báng và mắng nhiếc Ngài. Lịch sử nhân loại kéo dài, Đức Kitô can thiệp vào lịch sử ấy với ý định cứu chuộc con người và ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Nhiều người từ chối sự có mặt của Ngài, chối bỏ bản thể của Ngài, thậm chí có người lại còn lên án Ngài và muốn giết Ngài. Chính những người sống bên cạnh Chúa, sống cùng Chúa đã lên án Chúa. Giuđa Iscariốt là một người trong mười hai môn đệ của Chúa đã bán và nộp Ngài cho quân dữ đem đi đóng đinh.

Sống với Chúa, nhưng vẫn từ chối Chúa, đó là hình ảnh của Giáo Hội bị phân ly, chia năm sẻ bảy, chưa thống nhất, chưa liên kết với nhau trong niềm tin. Cây nho đích thực chính là Chúa Giêsu. Mọi thành phần trong Giáo Hội là chi thể của Ngài. Chi thể có liên kết với thân, với đầu mới có sự duy nhất, liên kết trong một khối. Hình ảnh ấy phải là hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Đức Giêsu Kitô trong Tin Mừng Marcô 6, 30-34 đưa ta tới hình ảnh của ràn chiên. Chiên có ở trong ràn mới gợi lên sự duy nhất của nó. Nếu chiên sống rải rác, sống phân lìa sẽ chỉ nói lên tính rời rạc, tan tác của ràn chiên. Viễn ảnh này làm nổi bật tính phân lìa của Giáo hội: Một Chúa, nhưng nhiều giáo phái. Mỗi giáo phái đều nhân danh Chúa nói lên sự thật, nhưng vẫn sống xa nhau, chưa trở nên một như Đức Kitô mong muốn :"... để hết thảy chúng nên một cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta. Và thế gian tin là Cha đã sai con " ( Ga 17, 21 ). Lời nguyện cầu của Chúa Giêsu có sức mạnh nối kết mọi người trong niềm tin ( Ga 17, 20-26 ) và sẽ làm cho thế giới tin vào sứ mạng của Chúa Giêsu đối với nhân loại ( Ga 3, 17 ).


Đức Giêsu đã thiết lập Giáo Hội của Ngài nơi trần gian này. Thoạt đầu, Ngài đã chọn mười hai môn đệ. Các môn đệ thường xuyên ở bên Chúa, nghe Ngài giáo huấn về giáo lý của Ngài. Ngài huấn luyện các môn đệ để các Ngài trở thành những kẻ đánh cá người ( Mc 1, 17 ). Vì là một tổ chức, nên Chúa đã chọn Phêrô làm đầu Giáo Hội. Ngài nói : " Ta bảo thật với con, con là Phêrô ( nghĩa là đá ) và trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta" ( Mt 16, 18 ). Việc Ngài chọn


Phêrô làm đầu Giáo Hội, có nghĩa Ngài xây dựng Giáo Hội trên nền móng các tông đồ. Nhờ nền móng ấy, Giáo Hội luôn tồn tại và vững bền. Ngài còn so sánh Giáo Hội với tấm lưới thả xuống biển trong đó có lẫn cá tốt và cá xấu. Ngài cũng gọi Giáo Hội là thuở ruộng mà cỏ lùng và lúa chỉ được phân loại lúc gặt lúa. Hay, Ngài còn so sánh Giáo Hội của Ngài là đàn chiên và Ngài là chủ chiên. Việc so sánh của Chúa Giêsu về Giáo Hội với cánh đồng lúa, mạng lưới, đàn chiên là để nói lên sự duy nhất của Giáo Hội Chúa Kitô. Một sự duy nhất có đầu, có cuối: đầu là Chúa, chi thể là mọi người. Ngài thiết lập Giáo Hội như một xã hội có tổ chức hẳn hoi với mọi quyền năng Ngài ban cho các môn đệ và những người kế tục sứ vụ của các môn đệ. Chúa Giêsu nói với các môn đệ :" Những gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Những gì các con cỏi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở " ( Mt 18, 18 ). Quyền hành Chúa trao cho các môn đệ, như một đoàn thể, Ngài đã trao cách đặc biệt cho Phêrô, Người được chọn làm thủ lãnh Giáo Hội. Chúa ra lệnh cho Phêrô và mọi tông đồ:" Hãy đi khắp nơi, giảng dậy muôn dân, rửa tội họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; dậy họ tuân giữ mọi điều Ta truyền cho các con và này Ta hằng ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế " ( Mt 28, 18-20 ). Sự duy nhất của Giáo Hội còn được thể hiện qua việc, Chúa Giêsu nguyện cầu cho mọi người được nên một:" Xin cho họ được nên một "(Ga 17, 21 ), cũng như Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài.


Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người được nên một trong Giáo Hội của Chúa và xin Ba Ngôi Thiên Chúa cầu cho mọi người liên kết mật thiết trong tình thương của Thiên Chúa
.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B
Mc 6,30-34

Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Ðêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư nhưng cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Như vậy, hai nhịp chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Ðức Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm, Người đã bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.

Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống thể xác, con người phải làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình. Vì sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Ðể thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Ðó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Ðời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Ðời sống tâm linh được nuôi dưỡng, bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.


Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.


Riêng trong lãnh vực tông đồ,
cầu nguyện là tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Hoạt động và cầu nguyện
. Ðó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.

Giữa những ồn ào của đám đông

giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giê-su
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giê-su
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giê-su,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.

Giuse Ngô Quang Kiệt

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B
Mc 6,30-34

Những năm gần đây cứ vào mỗi dịp hè, sinh viên các trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh được mời tham gia vào chiến dịch "Mùa hè xanh". Các bạn được đến các vùng sâu vùng xa để sống với bà con nông dân nghèo khổ. Các bạn dạy chữ cho các trẻ em và người lớn mù chữ, giúp sửa sang nhà cửa, lợp mái, đào mương làm cống, làm đường trong những khu xóm nông thôn. Qua một tháng trời sống với người dân nghèo, các bạn học được một bài học quý giá về tinh thần sống vì người khác.. Năm nay chúng ta thấy khẩu hiệu của các bạn sinh viên tình nguyện tham gia chiến dịch mùa hè xanh là : "Ở dân thương, làm dân tin, đi dân nhớ." Sau một chuyến đi chắc chắn các bạn sẽ có những kỉ niệm khó quên thấm đượm tình người

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ tinh thần sống cho người khác. Sống vì người khác là một đòi hỏi Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ phải thực hiện trong suốt đường đời sứ vụ tông đồ. Bởi vì đã là người thì ai cũng có mối liên hệ nào đó với người khác. Không ai có thể sống một mình, và chỉ lo cho cuộc sống mình được dư dật. Người ta thường nói : "
không ai là một hòn đảo giữa đại dương mênh mông" cho nên con người chỉ sống có ý nghĩa thật sự khi biết sống cho người khác. Mộ người có thể sống vì mọi người. Vì qua hành động sống cho người khác chúng ta tìm được niềm vui. Vì hạnh phúc của tha nhân cũng là hạnh phúc của chính mình. Ngày nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi mỗi người Kitô hữu sống liên đới và hiệp nhất với tất cả mọi người. Hình ảnh người mục tử mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay đưa ra chính là hình ảnh của một con người sống vì người khác và vì mục đích của cộng đồng. Trong cuộc sống tại thế, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về đời sống phục vụ tha nhân. Ngài lại không ngừng đi đây đi đó rao giảng Tin Mừng, chữa lành các bệnh tật, thăm viếng gặp gỡ dân chúng. Những việc làm của Ngài tựu chung chỉ muốn giúp cho đời sống họ được thăng tiến về mọi mặt, nhất là đời sống thiêng liêng. Chúa và các môn đệ bận rộn với dân chúng đến nỗi không có cả thời gian nghỉ nghơi. Ngài động lòng trắc ẩn khi thấy dân chúng đi theo mình. Thay vì để cho các ông nghỉ ngơi như dự định, Đức Giêsu lại tiếp tục làm việc, tiếp tục giảng dạy cho dân chúng.

Hơn ai hết Chúa Giêsu thấy được lòng mong mỏi lắng nghe Tin Mừng của dân chúng. Quả thật Ngài là vị mục tử tốt luôn thao thức những nhu cầu cấp bách của con người. Do đó Ngài mong muốn đem đến cho người ta những điều chân thật..Lời giảng của có giá trị Cứu độ con người. Ai tin và sống theo lời Ngài dạy sẽ trở thành con của Cha trên trời. Tinh thần chung của những lời dạy của Chúa là tinh yêu thưong và phục vụ


Thật vậy,Đức Giêsu không ngừng làm việc là chứng tỏ tấm lòng mục tử của Ngài đối với dân chúng. Mục tử tốt chính là người sống vỉ đàn chiên, sống cho đàn chiên và dẫn đưa đàn chiên tới thượng nguồn của sự sống và niềm hạnh phúc đích thực. Chỉ qua Chúa Giêsu con người mới được cứu độ. Một cách nào đó, mỗi người Kitô hữu cũng là mục tử của nhau qua việc sống biết chăm lo cho người khác. Chúa Giêsu đòi hỏi họ sống cho và vì người khác thay vì luôn sống ích kỷ, vụ lợi, tranh giành quyền lợi và nghĩa vụ với người khác.


Ngày nay trong một xã hội con người đang chạy theo biết bao nhiêu hình thức sống theo cá nhân chủ nghĩa,người môn đệ của Chúa Giêsu phải dám "lội ngược dòng đời" để sống theo lời Chúa dạy. Trong cuộc sống của người môn đệ phải dành chỗ cho tha nhân bằng với một tấm lòng yêu thương chân thật. Đi đến đâu người Kitô hữu phải làm sáng tỏ ra dấu hiệu của mình khi biết quên mình vì lợi ích của tập thể, của mỗi cá nhân. Người Kitô hữu trở thành mục tử khi có hành động tương trợ giúp đỡ và trao ban cho người khác những gì mình có. Danh hiệu Kitô hữu không phải là một đặc quyền đặc lợi để chúng ta đóng kín tấm lòng mình trước tha nhân. Niềm hạnh phúc của chúng ta là biết trao ban cả những gì có thể mình quý trọng nhất cho tha nhân. Có trao ban tất cả chúng ta mới có tất cả và có cả điều quý giá nhất là Nước Trời. Khi nghĩ đến việc sống cho người khác chúng ta tưởng chừng như rất khó thực hiện. Nhưng điều đó nằm trong tầm tay của mỗi người. Với ơn Chúa, với sự vươn lên và luôn hạnh động cho người khác cùa mỗi người chúng ta, chắc chắn nhiều người sẽ bớt đau khổ hay túng thiếu Sự bận rộn của Chúa Giêsu và các môn đệ xưa kia ngày nay người Kitô hữu cũng phải bận rộn như vậy. Điều mà chúng ta có thể rao giảng chính là cuộc sống vì tha nhân của chúng ta. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng hãy nghĩ đến tha nhân trước khi hành động một việc gì đó Có như thế người ta mới tin và theo Chúa Giêsu nhiều hơn. Mỗi người tùy theo khả năng có thể làm điều gì đó tốt cho tha nhân. Khi thấy người ta đang cần mình giúp đỡ viêc gì chúng ta cầm mau mắn" ra tay" Cộng đồng xã hội sẽ tốt đẹp hơn khi có những con người biết sống cho người khác.


Lạy Chúa cả cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng Chúa lúc nào cũng bận rộn vì dân chúng. Chúa cũng chết vì tội lỗi loài người chúng con. Xin cho mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn giáo xứ biết thực hiện những chương trình bác ái từ thiện giúp đỡ người nghèo có nhà ở, có cơm ăn áo mặc, và trẻ em được học hành tới nơi tới chốn. Vì nhờ đó chúng con làm sáng danh Chúa giữa cuộc đời này
.Amen

Martin Lê Hoàng Vũ

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B
Mc 6,30-34

Hai sự kiện lịch sử lớn nhất thế kỷ hai mươi là :

Việc mở cổng Brandenburg và phá đổ bức tường ô nhục Berlin trước lễ Giáng Sinh năm 1989, đã chấm dứt 28 năm chia đôi nước Đức và chiến tranh lạnh thế giới giữa hai phe hận thù tư bản và cộng sản, mở ra một kỷ nguyên mới hòa bình và tin tưởng lẫn nhau. Thế giới hy vọng có những chủ chiên nhân lành, thương dân, xây dựng một thế giới đoàn kết, phát triển.


Việc thứ hai là dân tộc Israel và Palestin đã hạ súng xuống, sau hơn 30 năm chém giết nhau. Giữa tháng 7 năm 1994, ông Arafát chủ tịch Palestin đã về nước và tuyên bố : "Palestin và Israel cùng một tổ tiên". Họ không còn những chủ chiên giả dẫn dắt vào con đường lầm lạc, hận thù, cuồng tín, tan nát. Họ đã được giải thoát khỏi những kẻ mù dắt mù xuống hố.


Người ta đã kể đến những vĩ nhân có công trực tiếp chấm dứt thời kỳ làm tán loạn thế giới là : Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, ông Walesa : chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Balan, ông Gorbachov : tổng bí thư Liên bang Xô viết và ông Reagan : tổng thống Mỹ. Thực ra, họ chỉ là những sứ giả hòa bình của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô mới là người phá bức tường chia rẽ hận thù giữa loài người với Thiên Chúa, giữa dân tộc với dân tộc, giữa cá nhân với cá nhân.


Thánh Phaolô đã nói rõ vai trò đó của Đức Giêsu Kitô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô : "
Trước kia anh em là những kẻ ở xa đối với Thiên Chúa, thì nay trong Đức Kitô, anh em đã trở nên những người ở gần ... Chính Người đã liên kết dân Do thái và dân ngoại thành một. Người đã hiến thân để phá đổ bức tường ngăn cách là hận thù. Như vậy, nơi bản thân, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới và thiết lập hòa bình. Nhờ thập giá, Người đã quy tụ đôi bên trong một thân thể duy nhất, và cho họ được giao hòa với Thiên Chúa".

Tin mừng hôm nay cho thấy tấm lòng của Chúa Giêsu thương mến đám đông dân chúng biết bao : "
Đến nỗi dầu mỏi mệt, đói khát đến đâu Người vẫn sẵn sàng tiếp đón họ, dạy dỗ và cứu chữa họ, không để họ bơ vơ thất vọng". Thiếu vắng Người, họ như đàn chiên không người chăn dắt. Dân Do thái và dân ngoại thời đó, giống như bầy chiên bơ vơ, lạc lõng. Đất nước bị quân La mã đô hộ. Vua quan như Hêrôđê chỉ là tay sai đế quốc bóc lột dã man. Hêrôđê có nhiều con, nhưng chính tay ông đã giết hết, chỉ còn bốn hoàng tử. Dân chúng hơi bị nghi ngờ là bắt giết. Một hôm vua giả dạng thường dân đến làng quê, gặp ông già, vua hỏi : "Ông nghĩ về vua thế nào ?". Ông đáp : "Chim trời cũng là tình báo cho vua, còn ai dám nói điều gì" (Lm. Bửu Dưỡng, Ngôn hành dưới đất, 1965. tr. 37).

Đời đã bị xiết chặt, đạo cũng bị phân tán trăm bè bảy mối : phái Sađốc lo ăn chơi bám gót đế quốc; phái tư tế lo giữ địa vị, sợ đế quốc cách chức, dẹp bỏ; phái Pharisiêu bày đặt ra những luật tỉ mỉ, kiêng cữ bên ngoài để gò ép dân chúng sống khắt khe. Mỗi bè phái lôi kéo dân chúng theo mình. Dân chúng không còn biết chủ chăn nào chân chính, chủ chăn nào của Thiên Chúa. Đúng như lời Chúa phán trong bài đọc một : "
Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc".

Giờ đây, Đức Giêsu đến để cho họ nhận ra Người là chủ chăn của Thiên Chúa. Người nói : "
Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống mình cho chiên ... cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi ... Tôi là cửa cho chiên ra vào, ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu".

Đức Giêsu còn dạy cho dân chúng biết kẻ chăn giả, không qua cửa mà vào, chúng chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy ... chúng không thiết gì đến chiên. Khi sói đến, chúng bỏ chiên mà chạy, để mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn (Ga. 10, 1-14).


Ngày nay, Giáo Hội của Đức Giêsu đang thực thi sứ vụ mục tử nhân lành, luôn luôn chỉ dẫn cho nhân dân thế giới biết những kẻ chăn chiên giả. Họ là trộm cướp, tham nhũng, bóc lột, đàn áp chiên để chiếm tài sản, danh vọng, chức quyền. Họ sống giàu sang phú quý, xa hoa như những ông hoàng bà chúa thời phong kiến độc tài. Dân chúng sống nghèo khổ, lại phải đóng góp thuế má mọi mặt, phải hạn chế sinh sản, lại tự do sống đồi trụy và phá thai. Dân chúng không còn chủ chăn chân chính mà chỉ có trộm cướp.


Trung tuần tháng 8 năm 1997, một mục tử nhân lành, dầu đã 77 tuổi, sức yếu, chân chồn, vẫn đến Paris, thủ đô nước Pháp, gặp gỡ, yêu mến, săn sóc và khuyến khích hàng triệu con chiên giới trẻ bơ vơ, biết mạnh mẽ sống yêu thương, đoàn kết, tin tưởng gắn bó chặt chẽ với Đức Kitô, Chúa chiên nhân lành, trẻ trung, đã hy sinh cho họ được sống và sống dồi dào. Ngày nay, còn được bao nhiêu mục tử nhân lành như vậy ? Còn được bao nhiêu linh mục, thày dạy, cha mẹ biết thấy con chiên đông đảo bơ vơ thì chạnh lòng thương để hy sinh phục vụ con chiên như Chúa chiên lành Giêsu xưa ?


Lạy Chúa Giêsu, Người đã lăn xả xuống trần gian, đi tìm đàn chiên tản lạc và soi sáng dạy dỗ họ bằng lời hằng sống, cứu chữa hồn xác họ được lành mạnh, tin tưởng. Họ được no thỏa nằm nghỉ ngơi trong đồng cỏ tình yêu xanh tươi êm ái của Người. Còn bao nhiêu tâm hồn bơ vơ thất bại trên thế giới hoang dã này, xin Chúa cho họ được thấy đường Người đi mà chạy đến gặp gỡ Người để được sống và sống dồi dào
.

Lm. Vikini

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B
Mc 6,30-34

Trong số những hình ảnh Kitô giáo thời sơ khai vẽ trên những bức tường hang toại đạo ở Roma, người ta thấy hình vẽ Đức Kitô dưới hình ảnh một người chăn chiên trẻ trung không để râu, vai vác một con chiên. Chủ đề rất cổ xưa này trong nghệ thuật Kitô giáo thời sơ khai được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta chứng kiến Đức Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông quần chúng như là những con chiên không có người chăn.

Bối cảnh hôm ấy là khi các tông đồ trở về từ chuyến đi truyền giáo đầu tiên. Các ông mệt mỏi và cần nghỉ ngơi. Đức Chúa Giêsu biết thế, nên Người đưa các ông đến một nơi yên tĩnh để các ông có thể nghĩ ngơi và cầu nguyện đôi chút. Nhưng mọi chuyện đã không xẩy ra như ý. Đám đông đã xác định được nơi Thầy trò sẽ đến, nên họ đã kéo nhau đến đó trước. Ắt hẳn một số môn đệ của Đức Chúa Giêsu nghĩ rằng Thầy mình nên bảo họ trở về nhà, vì ngày hôm đó Người cũng đã làm việc nhiều rồi, nhưng Đức Giêsu đã không quay lưng lại với hoàn cảnh. Tình cảnh dân chúng thật đáng thương và Người đã ý thức đến nhu cầu của họ.


Chúng ta có thể rút ra một bài học từ thái độ quảng đại của Đức Chúa Giêsu khi Người đặt nhu cầu của tha nhân lên trên nhu cầu của chính mình. Nếu Đức Chúa Giêsu không giữ lại cho chính mình, thì những người đi theo Chúa cũng thế thôi. Qua ơn gọi thanh tẩy, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm Kitô Hữu, đều có phần nào đó trong việc chăn dắt những người Chúa trao cho chúng ta. Nhiều khi hình như chẳng ai để ý gì đặc biệt trong đời sống gia đình. Nếu con cái đang tuổi lớn không được chăm lo cẩn trọng và chỉ dẩn đúng hướng, chúng sẽ có nguy cơ lạc lối và lang thang vô vọng suốt đời vì không có mục đích nào cả. Trở nên người chăn chiên lành như ý Đức Kitô mong muốn thật là cả một chuỗi công việc vất vả khó khăn. Con đường Người muốn chúng ta đi theo là một con đường thẳng và hẹp của Thập Giới. Nếu như chúng ta không liên tục kết hợp với Đức Kitô trong lời cầu nguyện, chúng ta có nguy cơ loanh quanh luẩn quẩn rồi lại tìm những con đường khác hấp dẫn hơn.


Tin Mừng hôm nay cũng nói đến tầm quan trọng của việc tìm một nơi yên tĩnh trong cuộc sống nơi mà chúng ta có thể một mình cầu nguyện với Đức Kitô. Giống như Đức Kitô, nhiều khi chúng ta phải tìm cách thoát khỏi những tiếng gọi liên tục, khỏi những áp lực luôn đè nặng, ngõ hầu chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa dịu êm chữa lành và bồi dưỡng chúng ta về mặt thiêng liêng. Người ta có thể nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa rõ nhất trong những giây phút lặng lẽ. Khi và chỉ khi nào Đức Kitô có chỗ cư ngụ trong trái tim chúng ta, chúng ta mới được khai mở đón nhận sức mạnh Thiên Chúa đến hỗ trợ đỡ nâng cuộc sống chúng ta.


Cầu nguyện một mình trong thinh lặng với Thiên Chúa là một trong những nhu cầu quan trọng nhất của chúng ta. Một mình đối diện với Ngài, chúng ta nên tự vấn mình sẽ đi đến đâu, sẽ cố gắng làm gì để đạt tới chỗ đó. Nếu chúng ta không tạo ra những khoảng trống dành cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, chúng ta sẽ lãng phí thời gian và không thấy gì ngoài những sinh hoạt hiện tại của mình thôi. Tất cả cuộc sống của chúng ta đã được thánh hiến, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được điều này nếu như chúng ta không trở nên môi miệng của Chúa; qua những nơi những người chúng ta thăm viếng, chúng ta trở nên đôi chân của Chúa.


Lm Nguyễn Văn Phan, CSsR.

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B
Mc 6,30-34

Một hình ảnh được Thánh Kinh miêu tả lột được hết ý nghĩa nhân từ và thương yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, đó là hình ảnh của người chăn chiên nhân lành. Tìm đọc những trang Cựu Ước thân thương đó, Chúa Giêsu cũng lại ví mình như những mục tử nhân lành săn sóc đoàn chiên. Điểm nổi bật về tấm lòng mục tử của Chúa Giêsu là sự quan tâm, chăm sóc đến bày chiêm, từ việc dẫn chiên ra đồng, đến việc tìm đồng cỏ xanh tốt cho chiên ăn, từ việc chăm nom từng con chiên yếu đau bệnh tật, đến việc liều chết canh giữ bày sói rừng hung dữ...... Tất nói lên cái trách nhiệm lớn lao của một mục tử nhân lành.

Trách nhiệm của một Tổng thống cai trị một nước. Trách nhiệm của một Cha Xứ săn sóc một xứ đạo. Trách nhiệm của những người làm cha mẹ hướng dẫn và giáo dục một bày con trong gia đình...... thật lớn lao, thật quan trọng. Nhiều khi chúng ta cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Cũng có lúc chúng ta cảm thấy một gánh nặng đè trên vai. Dân chúng làm reo, bổn đạo không phục quyền, con cái cãi lại cha mẹ. Đứng trước những khó khăn như thế trong đời, chúng ta phải làm gì ? Chúng ta nên làm điều mà Chúa Giêsu đã làm là "
Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà cầu nguyện" (Mc.6:31). Khi cầu nguyện chúng ta sẽ cảm nhận được sự ủi an, sự khích lệ và nâng đỡ của Chúa để chúng ta đương đầu với mọi khó khăn. Cũng như xưa, khi Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn cây dầu, thì "Một Thiên Sứ từ trời hiện xuống an ủi và nâng đỡ Người" ( Lc.22:43).

Khi ban hành một tài liệu mới, không những Đức Thánh Cha Gioan thứ 23, mà cả các Đức Thánh Cha khác nữa, các ngài đã để giờ đọc đi đọc lại tài liệu đó đó nhiều lần và để giờ cầu nguyện xin ơn soi sáng và khích lệ trước khi ban hành.


Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận, kể lại :"
Trong thời kỳ triệt thoái của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, khi tôi còn là Giám Mục Giáo Phận Nha Trang, quân đội Mỹ vây quanh tòa Giám Mục với xe tăng thiết giáp, tối đến không ai dám đi lại, đèn đóm trong tòa Giám Mục cũng thắp có giới hạn. Tình hình khẩn cấp lâm nguy đến nơi. Đêm ấy, tôi vào bàn giấy đọc kinh cầu nguyện và phó thác mạng sống trong tay Chúa Mẹ, Cầu nguyện xong, tôi vừa bước ra khỏi bàn giấy mươi phút thì súng nổ nã vào bàn giấy tôi ngồi và phòng tôi ngủ. Điện đóm nỗ tung, khói mù mịt, màn chiếu rách toang. Nghe tiếng nổ, tôi nép vào bức tường trách né. Đạn xuyên thủng tường ngay trên đầu tôi. Sau hồi súng nổ, cha Quản Lý từ nhà dưới chạy lên xem sét sự tình. Tạ ơn Chúa Mẹ, tôi vẫn còn sống. Số mệnh của tôi còn vững trong tay Chúa. Sáng hôm sau tôi ra hỏi toán lính Mỹ, họ cho hay đêm qua có Bộ Đội lẩn vào Tòa Giám Mục, nên chúng tôi được lệnh giữ an ninh cho ngài.

Số mạng tôi ở trong tay Chúa, Chúa gìn giữ tôi qua mọi nẻo đường. Dù bước đi trong đen tối chông gai, suốt 13 năm tù với bao nhiêu lần tôi tưởng chết, nhưng Chúa chưa cho thí mạng cùi. Ngài vẫn là Hy Vọng của đời tôi, Ngài luôn ở cùng tôi. Lời cầu nguyện và tín thác vẫn là con thoi sinh mệnh của tôi".
(Tâm sự riêng khi Ngài ghé thăm Đức Hồng Y Benadô Law tại Boston).

Tổng Thống Bush nhận thấy trách nhiệm nặng nề trên vai trước khi hạ lệnh đánh Iraq để tiêu diệt quân khủng bố, ông đã để nhiều thời giờ thăm dò dư luận của giới lãnh đạo thế giới và đắn đo suy nghĩ về kế hoạch mình sẽ thực hiện, cũng như ông đã dùng nhiều giờ cầu nguyện để được lòng can đảm và sức mạnh tiếp tục thi hành một bổn phận nặng nề và nguy hiểm trước thế giới. Cầu nguyện đã trở nên một sứ điệp thực tiễn và cần thiết để được Chúa ban ơn và nâng đỡ.


Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại lời (Thánh Vịnh 22: 1-3) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng (7/2003).


Lm. Thu Băng

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B
Mc 6,30-34

Hình ảnh người chăn chiên xuất hiện thường xuyên trong Kinh Thánh Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia đã minh chứng Thiên Chúa luôn lo lắng cho dân như một mục tử nhân lành lưu tâm, săn sóc cho từng con chiên một và thánh vịnh 23 cũng nói lên nguồn cảm hứng sâu xa ấy: Thiên Chúa xuất hiện qua Con Người của Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Ngài, Chúa Giêsu tự coi mình là Đấng Chăn chiên hiền lành chăm sóc, hướng dẫn đoàn chiên, ban lương thực cho chiên và nhất là đem Lời của Người để nuôi dưỡng đức tin cho đàn chiên của mình.

Thực tế, trong cuộc đời phục vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, cái ưu tư lớn nhất và khẩn thiết nhất của Ngài là nuôi dân đang khát khao nghe lời bằng chính lời của Ngài. Vì thế, khi các môn đệ vâng lệnh Chúa đi rao giảng, trở về bao quanh Chúa Giêsu, họ muốn kể lại mọi chuyện cho Chúa nghe, nhưng đám đông dân chúng cứ bám sát các Ngài, đòi Chúa phải thực hiện những điều ngoạn mục để họ hoan hô, tôn vinh. Còn Chúa, Ngài không bao giờ muốn dân chúng đề cao Ngài hay tôn vinh Ngài, Chúa chỉ làm bổn phận của mình vì Chúa Cha, vì tình hiếu thảo của Ngài đối với Cha của Ngài. Chúa muốn các môn đệ rút vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, dưỡng sức và thư giãn để tiếp tục sứ mạng rao giảng, nhưng dân chúng cứ ùa theo các Ngài khiến các Ngài không có giờ ngơi nghỉ và ăn uống, trời lại tối và cảnh tĩnh mịch, hoang liêu, xa nhà, xa làng, dân chúng lại đói, nên Chúa Giêsu đã nghĩ tới lương thực nuôi họ và như thế phép lạ hóa bánh ra nhiều đã xẩy ra. Ở đây, cuộc đời của Chúa Giêsu có thể gồm tóm trong câu: "
Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương"( Mc 6, 34 ) và Tin Mừng viết tiếp:" vì họ như bầy chiên không người chăn dắt và Người bắt đầu dậy dỗ họ nhiều điều"( Mc 6, 34 ). Đây là tất cả mạc khải về tình yêu của Chúa Giêsu đối với nhân loại, đối với con người. Trong thời Chúa Giêsu, nơi dân Do Thái có biết bao kẻ giỏi giang, thông thái, các luật sĩ, biệt phái là những người có đủ sức để dậy dỗ dân, nhưng những lời dậy dỗ của họ không phát xuất tự Thiên Chúa mà do họ bầy ra, những lời của họ đáng lẽ giải phóng dân, làm cho dân được cởi mở, nhưng trái lại những lời của họ sai sự thật, trái với lương tâm cho nên nó trở thành ách nặng nề đối với dân, dân Chúa vẫn đói, vẫn khao khát sự thật. Chính vì thế, nhân loại muôn thời sẽ hiểu tại sao dù bất cứ Chúa Giêsu và các môn đệ ở đâu, dân chúng cũng ùa tới với các Ngài, khiến các Ngài không còn một chút thì giờ để ngơi nghỉ, để ăn uống. Chúa Giêsu quả thực đã cho dân thấy rõ sự khác biệt giữa lời giảng dậy của Ngài, của các môn đệ Ngài với lời dậy dỗ của các ký lục, biệt phái và luật sĩ. Chúa Giêsu đã chỉ ra rằng lời giảng

dậy của các luật sĩ, biệt phái, ký lục đưa dân tới chỗ chia rẽ, đẩy dân ra khỏi đền thờ, khỏi hội đoàn, khỏi xã hội loài người. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã cho dân tiếp xúc với tình thương, với con tim quảng đại, với sự nhạy cảm tha thứ của Ngài. Chúa Giêsu đã đưa dân vào nước trời, vào tình thương vô biên của Chúa hay như ngôn sứ Giêrêmia và tác gỉa thánh vịnh 23 đã nói:"
Chúa chính là Đấng chăn chiên lành đã dẫn chiên tới những cánh đồng xanh mát ". Chúa chính là mục tử nhân hậu Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.

Chúa Giêsu đã không ngừng gặp gỡ dân của Ngài, mỗi lần tiếp xúc, mỗi lần giảng dậy, loan báo một sứ điệp, Chúa Giêsu luôn tỏ ra ân cần, Ngài thấy trước những nhu cầu, những khát vọng của dân. Phép lạ vẫn xẩy ra khi con người có lòng tin, khi con người sẵn sàng cộng tác với Chúa. Chúa làm phép lạ cho cá và bánh hóa ra nhiều để nuôi đoàn lũ đông đảo dân chúng đi theo Ngài. Trước khi làm phép lạ, Chúa đã trao ban cho họ lời sự thật, lời hằng sống. Chúa trao cho dân những gì là quí nhất, những gì là đẹp nhất của Ngài. Ngài chạnh thương đám đông, đang náo nức kéo đến và háo hức gặp Chúa Giêsu cùng các môn đệ của Ngài vì thực ra họ không biết đi đâu. Đám đông dân chúng không biết phải nói gì, nhưng họ đang chờ đợi, và đợi chờ tất cả nơi Chúa. Sự nô nức, nôn nao, háo hức của đám đông dân chúng đã được Chúa đáp trả bằng tình thương của Ngài. Chúa đã nói với họ bằng lời sự sống, Ngài đã mở mắt cho họ và khơi dậy trong lòng họ ngọn lửa đức tin để họ nhận ra Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài. Ở muôn thời, Chúa vẫn tiếp tục làm phép lạ và phép lạ lớn nhất là chính phép lạ Chúa sống lại khải hoàn sau khi yêu nhân loại đến hy sinh cả mạng sống của mình. Chúa tiếp tục mời gọi nhân loại tin và sống kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống mới, sự sống vĩnh cửu của Ngài và sống theo ý của Ngài. Phép lạ đã xẩy ra sau khi Chúa thấy đám đông nhiệt tình theo Chúa để lắng nghe Chúa dậy bảo...Chúa không những nuôi nhân loại bằng Lời, nhưng còn cả bằng lương thực trần gian. Chúa là một con người rất thực tế, gần gũi và hiểu con người. Tin Mừng là con người, là Đức Giêsu Kitô và tin vào Đức Kitô, phép lạ vẫn tiếp tục xẩy ra trong cuộc sống...

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm Chúa đang có mặt và đồng hành với chúng con từng phút giây trong cuộc đời.


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B
Mc 6,30-34

Khi còn tại thế, Chúa Giê-su dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm, và dạy họ cầu xin Thiên Chúa thánh hoá công việc họ làm. Sách Sáng thế ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, ta cần làm việc để nuôi thân và hộ đỡ gia đình. Ta bị gò bó vào giờ làm việc trong sở làm. Tuy nhiên nếu lúc nào ta cũng làm việc, và coi việc làm như là cùng đích và cứu cánh là sa vào thuyết duy vật. Thuyết duy vật coi con người là dụng cụ sản xuất, và đánh giá con người theo năng lượng sản xuất.

Trong Phúc âm hôm nay Chúa còn dạy:
Sau khi các tông đồ thuật lại mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy, Người bảo các ông hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi một chút (Mc 6:31). Và rồi Chúa Giê-su và các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Ap dụng lời Chúa dạy, ta cầm tìm thời giờ nghỉ ngơi để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống. Việc nghỉ ngơi không có nghiã là việc mất thời giờ. Việc nghỉ ngơi đã được Thiên Chúa chúc phúc trong Phúc âm hôm nay. Sách Sáng thế cũng ghi lại : Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Chúa Giê-su sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là đạo Ki-tô giáo đã dùng ngày thứ nhất trong tuần để nghỉ ngơi, để thờ phượng và cảm tạ Chúa thay vì ngày thứ bảy.

Có bao giờ bạn cảm thấy dù bận rộn việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu.. mà ta vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn ? Như Chúa khuyên các tông đồ cần tìm sự yên tĩnh, tìm bàu khí thinh lặng để ở một mình với Chúa, và để có thể lắng nghe tiếng Chúa. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng người ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa. Tại xứ này nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi. Trường hợp đó ta cần tìm nghỉ bù vào ngày khác để dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.


Thống kê trong cuốn sách Future Shock của Alvin Tofler có nhận định trung bình một người Mỹ cuối thế kỷ 20 thâu nhận từ mười tới hai mươi ngàn tiếng nói mỗi ngày từ báo chí, truyền thanh, truyền hình. Ngoài ra mỗi ngày họ còn nghe truyền thanh chừng 70 phút, và coi truyền hình hàng giờ, và còn nhiều hơn nữa vào cuối tuần.


Hôm nay mỗi người nên tự hỏi xem mình đã dành cho Chúa được bao nhiêu thời giờ vào việc cầu nguyện và thờ phượng? Không những giáo sĩ mà cả giáo dân, mỗi người phải biết tìm những nơi thanh vắng, để tĩnh tâm, cầu nguyện, đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa. Hôm nay ta tụ họp trong nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về màu nhiệm nhập thể, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chủ nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa, và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Cuối tuần khi ta kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và sức mạnh thiêng liêng.


Lm Trần Bình Trọng, USA

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B
Mc 6,30-34

Đời sống cần có Chúa : "Họ như bầy chiên không có kẻ chăn"

Sau tiên tri Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử "gầm thét" tội ác của các nhà lãnh đạo dân Chúa, nay đến Tiên tri Gierêmia lên tiếng: "Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên".


Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đày qua Babylone, trong số chính nhà tiên tri là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho dân Chúa, trung thành với Giao ước Sinai thì họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, nhà Tiên tri nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi họ Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Người. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.


Thánh Phaolô, trong Thư gởi giáo đoàn Ephêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm "cho đôi bên nên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù", chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin Mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên cây Thập giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôm chầm cả nhân loại.


Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi "Ngài không có cả thì giờ để ăn". Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.


Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như "trên một ngọn núi cao, xa vắng" (9,2), trên bức thành đá ven bờ hồ Tiberiađê (5,1); bờ biển Phêniciam (7,24-31) hay gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hermon (8,27). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các tông đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm tông đồ của mình (6,30), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút" (6,31). Họ vừa nghỉ ngơi vừa nhìn gương Thầy an nghỉ trong Đức Chúa Cha: "Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện ở đó" (1,35). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.


Nhưng Chúa Giêsu và các môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, "họ như bầy chiên không có kẻ chăn". Họ cần có Chúa.


Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa".


Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống tông đồ là một đời sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để xa những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.


Đức Gioan XXIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng "trở về nguồn". Đặc biệt, Ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng dạy... Trước khi khai mạc Công Đồng Vaticanô II, Ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hươngở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công đồng được kết quả.


"Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi...
Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,
Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, người lo bồi dưỡng"
(Tv. 22,1...)

Cố Lm. Hồng Phúc, Dcct                           (nguồn vietcatholic.org)

2571    19-07-2012 16:51:38