Sidebar

Thứ Tư
22.05.2024

Lễ Mình Máu Chúa Kitô B

  1. Thánh Thể: Mầu Nhiệm Hiệp Thông Và Chia Sẻ
  2. Lễ Mình Máu Chúa Kitô
  3. Lễ Mình Máu Chúa Kitô
  4. Lễ Mình Máu Chúa Kitô
  5. Lễ Mình Máu Chúa Kitô
  6. Các Con Lại Không Thức Với Thầy Được Một Giờ Sao?
  7. Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa
  8. Bánh Trường Sinh
  9. Một Bữa Ăn Đáng Ghi Nhớ Muôn Đời
  10. Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa Giêsu
  11. Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa Kitô B
  12. Mầu Nhiệm Tình Yêu
  13. Hoc Est Corpus Meum
  14. Hãy Nhận Lấy Mà Sống
  15. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
  16. Hiện Diện - Hiệp Nhất - Chia Sẻ
  17. Tình Yêu Tuyệt Vời
  18. Thánh Thể: Nguồn Cứu Độ

THÁNH THỂ: MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG VÀ CHIA SẺ
Mc 14,12-16.22-26

1. LỜI CHÚA: "Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy" (Mc 14,22)

2. CÂU CHUYỆN: KỶ VẬT TÌNH YÊU

Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được mười năm và đã có với nhau một đứa con gái 4 tuổi. Trong thời gian đó họ đã sống rất hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày trước khi rời nhà đi làm buổi sáng, và chiều tối khi về đến nhà, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ và con gái cử chỉ âu yếm kèm theo một lời yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng và đứa con thơ ngày một bền vững. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng đi làm về bị trúng mưa và được đem đến bệnh viện điều trị. Sau khi khám bệnh, bác sĩ chẩn đoán anh bị ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba. Một tuần sau anh qua đời. Trước khi chết, anh gọi vợ con lại gần và thều thào trăn trối: "Em và con yêu quí! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được sống bên em và con nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà vợ chồng mình đã tặng nhau khi kết ước cách đây mười năm. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa cho em được hạnh phúc". Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã từng làm trong lễ hôn phối. Nói xong anh ra đi trước sự thương tiếc vô vàn của vợ con. Rồi anh được an táng tại đất thánh gần nhà. Từ đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó bông, dắt theo đứa con gái còn nhỏ dại đi vào nghĩa trang. Chị ta đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của người chồng quá cố để cầu nguyện cho anh. Trên tay chị có đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của chồng tặng trước khi từ giã cuộc đời.

3. SUY NIỆM:

Hơn hai ngàn năm trước đây, Đức Giêsu đã làm một công việc tương tự: Biết rằng "Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể, để lại cho Hội Thánh kỷ vật là dấu hiệu của một tình yêu lớn lao tột đỉnh. Kỷ vật đó chính là Mình Máu thánh của Người dưới hình bánh rượu, làm của ăn của uống thiêng liêng để các tín hữu được hiệp thông với Người. Tin Mừng Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giêsu lập phép Thánh Thể trong khung cảnh bữa tiệc Chiên Vượt Qua (x Mc 14,22-24), như Người đã hứa trong bài giảng về Bánh Hằng Sống tại hội đường thành Ca-phác-na-um (x. Ga 6,51-58). Vậy Đức Giêsu thiết lập phép Thánh Thể lúc nào? Ý nghĩa cũa bí tích này ra sao? Ngày nay chúng ta phải cử hành bí tích Thánh Thể thế nào để đạt hiệu quả cao nhất?

1) THIẾT LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ: Đức Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua cũng là bữa ăn cuối cùng trước khi từ biệt  các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn, Người sử dụng bánh không men và rượu nho dùng trong bữa tiệc Vượt Qua của đạo Do thái để biến nên Thịt Máu Người, hầu ban cho những kẻ ăn Thịt uống Máu ấy sẽ được sống đời đời. Thánh Mác-cô đã thuật lại câu chuyện Đức Giêsu lập phép Thánh Thể như sau: "Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ứớc, đổ ra vì muôn người" (Mc 14,22-24).

2) Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ: Tin Mừng đã ghi nhận bốn sự kiện liên quan đến bí tích Thánh Thể như sau: Một là phép lạ Đức Giêsu biến nước lã thành rượu nho tại tiệc cưới thành Ca-na, tiên báo về việc biến rượu trở nên Máu Người trong bữa Tiệc Ly sau này (x Ga 2,1-11). Hai là phép lạ Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều tại thành Ca-phác-na-um, sau đó Người cho biết sẽ ban Thịt Máu Người làm của ăn của uống thiêng liêng đem lại sự sống đời đời cho ai lãnh nhận (x Ga 6,1-14.32-35.48-58). Ba là bữa Tiệc Ly Vượt Qua, trong đó Người dùng bánh rượu trong tiệc Chiên Vượt Qua để thiết lập bí tích Thánh Thể và truyền cho các môn đệ: "Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy" (Lc 22,14-19). Bốn là Đức Giêsu chủ sự lễ Bẻ Bánh với hai môn đệ tại làng Em-mau, trong đó Người dùng Thánh Kinh rao giảng mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh, đồng thời lặp lại các cử chỉ và lời đọc như trong bữa Tiệc Ly. Từ đó trở thành khuôn mẫu của thánh lễ sau này (x Lc 24,13-32).

Mình Thánh Chúa là món quà quí giá nhất mà Đức Giêsu đã trao tặng cho chúng ta. Người tự hiến trọn vẹn bằng việc ban Thịt Máu Người làm của ăn thức uống để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta và để có thể ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Mặc dù trí khôn không thể hiểu thấu mầu nhiệm này, dù giác quan chúng ta không cảm thấy có sự khác biệt giữa tấm bánh trước và sau khi truyền phép, nhưng đức tin dạy chúng ta rằng: Sau lời truyền phép của linh mục Chủ Tế trong thánh lễ thì bánh rượu liền hóa nên Mình Máu Chúa Giêsu dựa vào lời Người đã phán: "Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6,54-56). Quả thật, chỉ có trái tim của một người Cha, một người Thầy yêu thương đến tột cùng mới có thể nghĩ ra cách thức trao tặng con cái và môn đệ một món quà vừa thiết thực lại vừa kỳ diệu đến như vậy!

3) HIỆP THÔNG VỚI CHÚA ĐỂ CHIA SẺ VỚI ANH EM:

Sau đây là một số việc các tín hữu có thể làm để đáp lại tình thương của Chúa Giêsu Thánh Thể: Mỗi ngày năng tham dự Thánh lễ và dọn mình lên rước lễ sốt sắng, năng dự giờ chầu Mình Thánh Chúa. Trong ngày chu tòan việc bổn phận, kèm thêm các việc hy sinh bác ái  dâng lên Chúa với lời nguyện tắt: "Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể. Con làm việc này như dâng một bông hoa hồng lên Chúa, biểu lộ lòng yêu mến của con. Xin Chúa vui nhận và ban cho một bệnh nhân sớm được lành bệnh, cho một tội nhân sớm được hối cải, cho một  người lương sớm được nhận biết và yêu mến Chúa để cũng được hạnh phúc và được sự sống đời đời với con sau này."

4. THẢO LUẬN: 1)Ta cần dọn mình trước và cám ơn sau khi rước lễ thế nào? 2)Ta cần chia sẻ Bánh Thánh Thể cho tha nhân bằng cách nào để góp phần kiến tạo Trời Mới Đất Mới công bình và yêu thương như ý Chúa muốn?

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊSU. Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa lập ra để giúp chúng con thể hiện tình yêu thương hiệp nhất. Do đó, chúng con cần tránh những hành động ích kỷ và chia rẽ, như Tông đồ Phao-lô đã cáo trách giáo đoàn Cô-rin-thô: "Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau... Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say! Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của?... Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án!" (1 Cr 11,18-22.33-34). Vậy xin Chúa giúp chúng con biết hiệp thông với cộng đoàn bằng cách vào nhà thờ dự lễ thay vì đứng bên ngoài, hiệp lời kinh tiếng hát chung cộng đoàn. Sau khi đón nhận Chúa, xin cho chúng con biết chia sẻ Chúa với tha nhân bằng vịệc đi bước trước làm quen những người mới gặp, nhường chỗ tốt cho người già cả tật bệnh và quan tâm cầu nguyện cho những người đang sống bên chúng con.

- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: "Chúng con phải sống bí tích Thánh Thể", nghĩa là phải trở nên tấm bánh được bẻ ra cho một thế giới mới. Xin cho chúng con ý thức rằng: Đức Giêsu đang ở trong chúng con và cùng hành động với chúng con. Người đang nhờ chúng con đến với tha nhân, để an ủi động viên những người lao nhọc, bênh vực những kẻ cô thế cô thân, mời gọi những kẻ tội lỗi hồi tâm sám hối, chia sẻ cơm bánh cho những ngừơi đói khát, khiêm nhường phục vụ những ngừơi bất hạnh ... Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được Chúa ban ơn cứu độ trong ngày phán xét sau này.

X. Hiệp cùng Đức Mẹ Maria

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

LM ĐAN VINH www.hiephoithanhmau.com

LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ
Mc 14, 12 - 16. 22 - 26 

Anh chị em thân mến.  
Đoàn kịch nói Kim Cương tuy bây giờ không còn tồn tại, nhưng những vở kịch của đoàn đã đi sâu vào lòng người. Tôi còn nhớ đến vở kịch mang tên Lá Sầu Riêng. Trong đó nói lên tình cảnh của một người đàn bà nghèo trải qua những khó khăn, gian khổ. Bà mới được quyền nuôi đứa con mà mình đã sinh ra. Mẹ góa con côi, bà phải tảo tần hôm sớm để lo cho con được nên người. Khi nó đã trở thành một vị bác sĩ và sắp thành hôn với một cô gái mà nó đã yêu thương. Bất ngờ một hôm vì nhớ con quá, bà mẹ lên thăm con mà không báo trước.

Bà bước vào nhà thấy con không được vui vì đang có cô người yêu hiện diện trong nhà. Bà mới chợt hiểu ra con mình không dám cho người ta biết về nguồn gốc nghèo khổ của mình, nhất là đối với cô người yêu. Chính vì thế anh ta không dám nhận mẹ mình trước mặt người yêu vì dáng vẽ quê mùa nghèo hèn của người mẹ. Anh ta sợ mất người yêu mà đành chối người đã sinh ra và đã hi sinh cả cuộc đời cho mình. Thấy thế, mẹ anh buồn quá mới thốt lên một câu:" Con ơi, nhớ lúc nhỏ, mẹ cho con chỉ một cái kẹo thôi, con cũng vui, nhưng bây giờ, mẹ đã cho con cả cuộc đời mà con cũng không vui được sao?" Lời nói đó đã đánh động đứa con, nó chợt hiểu ra không có gì sánh được với tình mẹ.

Khi nó chấp nhận người mẹ nghèo hèn, đã hy sinh cả cuộc đời cho nó, chẵng những nó có được người mẹ, mà trái lại người yêu nó cũng chấp nhận khi thấy một người sống có nhân nghĩa và có hiếu.

Chúng ta vừa chứng kiến lại một sự kiện lịch sử của sự cho đi, không phải chỉ một cái kẹo hay chỉ một cuộc đời, mà là cả mạng sống. "Đây là Mình Ta. . . Đây là Máu Ta." Ngài không còn giữ lại gì cho Mình, Ngài đã cho đi tất cả. Ngài tự hiến làm của ăn cho những người mà Ngài yêu thương, để nuôi dưỡng họ trong mọi hoàn cảnh. Ngài muốn hòa nhập vào chính cuộc sống của họ để nuôi dưỡng, để thông cảm, để yêu thương và để đem họ về hưởng hạnh phúc với Ngài. Trải qua thời gian, biết bao người đã cảm nhận được Tình Thương bao la đó, nên họ đã được cải hóa để có cuộc sống xứng đáng với những gì họ đã nhận được.

Nhưng cũng có không ích người lo sợ, họ sợ mất đi những cái mình đang có, sợ mất đi những cái mình đang tận hưởng được, sợ mất đi chỗ đứng trên trần gian nầy, sợ mất đi những tiền tài danh vọng mà một ngày nào đó nó sẽ phản bội và từ bỏ họ. Thế mà họ lo sợ mất những thứ đó, nên họ tìm cách bám lấy nó, để rồi trong cuộc sống hằng ngày, họ sống mà không cần biết đến Đấng đã từng yêu thương họ, đã từng cho họ cuộc sống an lành, đã dám đổ máu ra và chết vì họ. Họ đã quên Đấng đã cho họ cả cuộc đời, cả mạng sống của mình. "Đây là Mình Ta. . . Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người. . ."

Chúa Giêsu nói với từng người trong chúng ta như thế. Lời nói đó chúng ta nghe rất thường, chút nữa đây trong thánh lễ chúng ta cũng nghe lại lời nói thâm tình đó. Có lẽ lời nói đó không đủ đánh động tâm hồn chúng ta, nên chưa thay đỗi được con người quá khô cứng này. Lời nói đó cũng không lai động nỗi con tim chúng ta, để nó biết run lên và cảm nhận được tình yêu thương bao của Đấng dám cho chúng ta cả cuộc đời, cả mạng sống của mình.

Như vậy làm sao chúng ta có thể so sánh được với người con trong vở kịch, nó nhìn thấy được những sai lầm của mình và biết sữa đỗi. Còn chúng ta, nghe nhiều quá nên không còn suy nghĩ, không còn có thể thay đỗi được nữa, mặc dù hằng ngày chúng ta vẫn dùng thức ăn của Tình yêu để nuôi sống mình. Nhưng chúng ta đến rước Chúa mà vẫn không một chút ý thức. Nếu mỗi người chịu khó suy tư về những việc mình làm, chịu khó để hết tâm trí vào những gì mình thực hiện, thì công việc của chúng ta sẽ tốt hơn, và vì thế chắc con người của mình cũng sẽ được tốt hơn. Được như thế, Thiên Chúa cũng vui mừng khi nhìn thấy Tình yêu của Ngài đã được đáp trả.

Xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình yêu Chúa, xin Chúa cải hóa để chúng ta biết quay trở về với Tình yêu của Ngài.

LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ
Mc 14, 12 - 16. 22 - 26 

Trong một dịp gặp gỡ với những bạn bè cùng lới thời phổ thông trung học, thì bất ngờ, một người bạn ngồi bên cạnh đặt câu hỏi như thế này: "Bánh Thánh trên bàn thờ mà mọi người sẽ lên nhận lấy, có phải là Mình Chúa thật sự, hay đó chỉ là một biểu tượng ?" Và con đã trả lời rằng: "Đây là một vấn đề thuộc lãnh vực đức tin. Nếu không cùng một niềm tin, thì làm sao anh có thể chấp nhận được những điều tôi nói."

Thưa anh chị em ! Câu chuyện đã kết thúc một cách ngắn ngủi như vậy. Thế nhưng dư âm của nó thì có thể nói là vẫn còn kéo dài cho tới ngày hôm nay. Và rồi hàng năm, mỗi khi đến ngày lễ này, ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, con đều nhớ lại kỷ niệm đó, một kỷ niệm không chỉ đơn giản là một lần tay bắt mặt mừng, mà dường như đó là một cơ hội Chúa gửi đến để giúp mình xác tín mạnh mẽ hơn về sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể.

Khi còn ở trần gian này, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng: "Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế." Nghĩa là trong tình thương của Chúa, Người sẽ đồng hành với chúnmg ta suốt mọi ngày trong đời sống của mình. Nếu đọc lại lời hứa này trong cái nhìn tâm lý, chúng ta sẽ thấy rằng: Đức Giêsu không thể không hiện diện trong Bí tích Thánh thể được. Bởi vì khi yêu nhau, người ta không bao giờ muốn rời xa nhau. Và nếu vì lý do nào đó mà người ta không thể ở gần nhau được, thì họ sẽ cảm thấy một nỗi trống vắng rất lớn lao, cho nên người ta mới nói rằng :

"Người đi một nữa hồn tôi mất,
một nữa hồn kia đứng dại khờ."

Bước vào trần thế này bằng con đường Tình Yêu: "Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào", Đức Giêsu cũng mang một nỗi niềm như thế. Nghĩa là trong ước mơ của Chúa luôn có bóng hình của chúng ta. Chúa hoàn toàn không hề muốn xa lìa những kẻ Người thương mến, nên đã có lần Người mở miệng kêu xin rằng: "Lạy Cha ! Con muốn rằng: con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đó với con." Yêu là muốn gần nhau, là muốn đồng hành với nhau.

Người ta không thể cứ ở xa nhau mãi, rồi chỉ gửi biểu tượng đến thay thế cho tình yêu. Như vậy thì làm sao ta có thể nói bánh và rượu trên bàn thờ, mà chút nữa đây tôi sẽ rước lấy, chỉ là biểu tượng của Mình và Máu Chúa Kitô. Vã lại, nếu tấm bánh trên bàn thờ đó không là sự hiện diện thật của Chúa, thì rõ ràng, Người đã không yêu chúng ta bằng con người thật, mà ngược lại, đó chỉ là bóng hình của tình yêu mà thôi.

Mà nếu chỉ là bóng hình thôi thì chắc chắn rằng, tình yêu giữa Thiên Chúa và con người vẫn mãi mãi là một tình yêu dang dở. Hơn nữa, xét trong ý nghĩa: yêu là cho đi tất cả, là cho đi trọn vẹn, thì quả thật, bánh và rượu trên bàn thờ phải thật sự là thịt và máu Chúa. Bởi vì Chúa muốn ở gần với tôi và ở trong tôi, cho nên Chúa không thể và không bao giờ gửi một biểu tượng đến ở với tôi. Chính vì thế mà khi nói rằng: Bánh và rượu trên bàn thờ chỉ là biểu tượng của mình máu thánh Chúa, thì đó mới thật sự là một điều khó hiểu, vì nó hoàn toàn mâu thuẫn với hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng thương xót. Người đã chấp nhận chết trên thập giá để minh chứng tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.

Thưa anh chị em ! Phụng vụ Lời Chúa ngày hôm nay xoay quanh một vấn đề rất căn bản: "Đức Kitô chính là tấm bánh mang lại sự sống đời đời cho tất cả những ai tin vào Người". Có lẽ chúng ta cũng vẫn còn nhớ phép lạ vĩ đại mà Đức Giêsu đã thực hiện để nuôi sống hơn năm ngàn người trong nơi hoang vắng. Ngày hôm ấy, liền sau khi dân chúng được no nê thừa thãi một thứ bánh đặc biệt, thì Đức Giêsu giới thiệu cho họ một thứ bánh đặc biệt hơn, cao quý hơn.

Thứ bánh đặc biệt này mới thật sự cần thiết và đem lại sự sống đời đời cho chính họ, đó chính là Mình và Máu Chúa: "Tôi chính là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi sẽ không hề đói. Ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ". Và hôm nay đây, trong khung cảnh ấm cúng của bữa tiệc ly, bữa ăn cuối cùng với các đồ đệ của mình, Đức Giêsu đã xác nhận một lần nữa khi cầm bánh và rượu trong tay mà đọc rằng: "Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy. Này là Máu Thầy, Máu Giao ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội".

Như vậy đức Giêsu đã tìm ra được một phương thế để ở lại với các môn đệ, cũng như là với tất cả những ai tin vào Người, đó chính là Bí tích Thánh thể, Bí tích của tình thương Chúa. Và chắc chắn rằng ai trong chúng ta đang ngồi đây cũng đã tin vào Chúa Giêsu hiện điện trong Bí tích ấy. Thế nhưng chúng ta hãy dành một chút thời giờ để nhìn lại xem: thái độ bên ngoài của chúng ta có ăn khớp với niềm tin của mình không ? Nói khác đi là tôi có kính trọng đủ và coi Bí tích Thánh thể như là một thứ lương thực cần thiết cho đời sống của mình không ?

Bởi vì thực tế đã cho thấy rằng: có khi chúng ta đến với Bí tích Thánh thể, đến với Thánh lễ ngày Chúa nhật một cách gượng ép ngại ngùng. Người ta đi lễ thì tôi cũng đi. Tôi đi lễ vì sợ người ta có một cái nhìn không tốt về tôi. Tôi đi lễ vì sợ ông cha biết mình bỏ lễ ngày Chúa nhật. Vào trong nhà thờ: người ta đứng thì tôi đứng; người ta ngồi thì tôi ngồi; người ta quỳ thì tôi cũng thế; người ta đi rước lễ thì tôi cũng vậy, mà tôi hoàn toàn không có một chút ý thức nào cả. Tệ hơn nữa là tôi đang ở trong tình trạng tội nặng mà tôi vẫn ung dung đi rước lễ như mọi người. Hoặc là ngược lại với thái độ trên, tôi quá kính trọng Mình Thánh Chúa đến độ mà giờ đây thứ lương thực siêu nhiên đó đã trở thành xa lạ với tôi. Tôi luôn cảm thấy mình bất xứng thấp hèn, nên không bao giờ tôi dám đến gần, mà cũng chẳng bao giờ tôi dám rước lấy.

Thưa anh chị em ! Chúng ta cần loại trừ ngay cả hai thái độ ấy trong đời sống niềm tin của mình, bởi vì như lời một Thánh Vịnh đã viết: "Nếu Chúa tôi nhớ hoài sự lỗi, nào có ai chịu nổi được ư". Dĩ nhiên là khi muốn rước Chúa, chúng ta cần phải có một sự chuẩn bị chu đáo, ít ra là theo những điều kiện mà Giáo hội đã chỉ dạy. Thế nhưng việc rước lễ sốt sắng sẽ mang lại cho chúng ta nhiều ơn ích thiêng liêng, mà trong đó, chúng ta sẽ nhận được ơn tha thứ các tội nhẹvà những sức mạnh cần thiết để chúng ta sống cuộc đời này tốt hơn, đẹp lòng Chúa hơn.

Ước mong rằng, cùng với việc tìm kiếm lương thực nuôi dưỡng cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng biết sắp xếp công ăn việc làm của mình để tìm đến với Bí tích Thánh thể, với Thánh lễ hàng ngày, hàng tuần bằng tất cả lòng tin tưởng và kính trọng, để lãnh nhận thứ lương thực thiêng liêng, một thứ lương thực mà Chúa đã bảo đảm là sẽ ích lợi và cần thiết cho cuộc sống này và đời sau vĩnh cữu. Đó chính là đều mà chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau trong Thánh lễ hôm nay.

LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ
Mc 14, 12 - 16. 22 - 26 

Trong bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con, hãy nhận lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con (Ga 20, 22)

Chưa từng có nhà thần học nào dám nghỉ rằng mình hiểu và diển tả đủ về mầu nhiệm BT. Thánh Thể. Thật vậy, miệng lưỡi, tâm trí ta phải " khựng" lại trước mầu nhiệm tình yêu quá cao sâu kỳ diệu này. Trong đời thường, nhiều Kitô hữu lại xem nhẹ Thánh Thể. Nhiều người rước Mình Chúa đều đều, nhưng đời sống chẳng thay đổi bao nhiêu, có khi còn tệ hơn. Có mấy ai nghỉ tại sao Chúa Giêsu lại lập BT.TT trong một bữa tiệc. Thánh Thể liên hệ đến đời sống Kitô hữu thế nào? Chúng ta cùng suy niệm qua bài TM của ngày lễ hôm nay.

a. Mình Máu Chúa Kitô là của ăn nuôi người Kitô hữu: Chính Chúa Giêsu ý thức rõ điều đó, khi nói: " Này là Mình Thầy, này là Máu Thầy hiến ban cho các con ..." Hội Thánh tin vào Lời Chúa Giêsu nói; vì thế, qua 20 tk, Hội Thánh được sống động và tồn tại nhờ thứ lương thực này. Chính Đức Kitô đã nói: " Ai ăn thịt và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời " . "Vì thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống..." (Ga 6, 54-55) "nếu các ông không ăn thịt và uống máu Ta, các ông không có sự sống nơi mình ..." (c. 6, 52).

Những điều Chúa nói trên, hoàn toàn không có tính tượng trưng, hay chỉ là nói theo nghĩa bóng (vì có người ngày nay, cũng không tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong BT.TT); Thịt và Máu : chỉ toàn diện con người Đức Kitô đã hiến tế trên thập giá; dòng Máu Chúa đổ ra và cái chết của Người, đã ký kết Giao Ước mới vĩnh cửu để cho nhiều người được tha tội, nhất là trở nên của ăn nuôi người tín hữu , ngay ở đời này ...

Một số các thánh được Chúa ban cho đặc ân là: cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong BT. Thánh Thể; chính Chúa Giêsu mỉm cười với Cha Thánh họ Ars trong khi ngài dâng Mình Thánh Chúa lên. Bà Têrêsa Newman và Bà Marthe Robin hầu như chỉ sống nhờ Bánh Thánh thể và nước lả trong mấy mươi năm trời.

b. Tiệc Thánh Thể, chính là tái diển Hy Lễ xưa trên thập giá, và ban Thịt Máu mình hiện diện trong bánh rượu làm của ăn nuôi nhân loại "Tiệc TT cũng là bữa Tiệc Hiệp thông trong tình yêu, và trong sức sống của Thiên Chúa; vì thế khi dự Tiệc TT, mức độ hiệp thông càng lớn, ta càng giống Chúa Kitô, càng biến đổi nên như Người, sức sống thần linh càng chiếm ngự trong ta"... Chính đời sống các Thánh qua 20 tk, đã minh chứng hùng hồn cho ta về hiệu quả cuả thức ăn này, và sự hiệp thông trong cuộc sống thần linh với Thiên Chúa.

c. Gợi ý suy niệm:

* Chúng ta giử đạo đã mấy mươi năm, rước Chúa có khi đã mấy ký bánh rồi, vậy mà sự sống đời đời có ngập tràn trong ta chưa? Tình yêu của TC có đầy dẩy trong ta không? Hay ta cũng chẳng có gì khác lạ? Hội Thánh qua 20 tk, đã sống nhờ chính lương thực kỳ diệu này, còn ta thì sao? Nếu chưa có, ta có cách nào sữa đổi, để đón nhận lương thực quá kỳ diệu này?

* đi tham dự thánh lễ chính là để được ăn bánh ban sự sống, để Chúa hiện diện trong ta, cho ta được ngụp lặn trong sự sống thần linh và trong tình yêu Chúa; thế mà bao nhiêu lần ta đi lễ quá nhàm chán, đi lễ cho có, cho rồi, để không lỗi luật ngày Chúa nhật, nhất là đi lễ, rước lễ mà chẳng dọn mình xứng đáng chút nào cả. Hiểu được điều này, ta có nghỉ rằng đây là do lỗi ta, không phải do Thiên Chúa không muốn đến với ta, không muốn yêu thương ta chăng ?

LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ
Mc 14, 12 - 16. 22 - 26 

Một hình ảnh dễ thấy nhất đó là cho đến ngày hôm nay, phần lớn càc nhà thờ ở Việt Nam vẫn còn nhiều người đến tham dự thánh lễ. Đó là dấu hiệu đáng mừng. Còn ở phương Tây và nhất là các nước văn minh tiến bộ thì không còn được như thế. Đó là dấu hiệu đáng buồn. Nhưng dù là dấu hiệu mừng hay dấu hiệu buồn thì bên cạnh đó vẫn có một mối bận tâm nào đó đặt ra: Không biết phần đông người ta tới nhà thà thờ dự lễ vì mục đích gì? Lý do gì? Nói cách khác, người ta quan niệm về thánh lễ ra sao. Những người không đi lễ, ít lui tới nhà thờ, họ quan niệm về thánh lễ ra sao. Còn anh chị em , chúng ta quan niệm về thánh lễ thế nào? Vì sợ tội ? Vì đó luật nên phải giữ?

Vì thế Chúa Nhật lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, thiết tưởng đây phải là dịp để mọi người trả lời cho câu hỏi đó. Để đi tìm câu trả lời này, ta hãy bắt đầu bàn đến chính kinh nghiệm đời thường của chúng ta:

Từ một kinh nghiệm về sự hiện diện:
Trong những quan hệ thường ngày, quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình, quan hệ anh em, quan hệ bạn bè. Sự hiện hiện là cần thiết.

Kinh nghiệm cuộc đời nói với ta: trong một lúc náo đó, mình rơi vào nỗi cô đơn, tất cả những lời nói chung quanh đều vô nghĩa. Thế nhưng sự hiện diện của một người thân, một người bạn là cần thiết và quý giá nhất. Người đó có mặt ở đấy với ta, bên cạnh ta để trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ, tâm sự,... với ta.Rất cần. Kinh nhgiệm trong tình yêu cũng thế. Hai người yêu nhau. Sự hiện diện bên nhau không cần nói gì với nhau. Chỉ cần anh có mặt, bên cạnh em là đủ rồi.

Đến kinh nghiệm của đức tin:

Ðức Giêsu hứa với các môn đệ: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" ( Mt 28,20). Lời hứa đó, không phải là lời hứa suông cũng không phải là m ơ hồ. Lời hứa đó được cụ thể bằng chính sự hiện hiện của Ngài trong mầu nhiệm Thánh Thể.

Ta hãy nghe lại lời Ðức Giêsu đã nói: "... này là Mình Thầy...này là Máu Thầy...".(Mc 14,22-24).Này là mình Thầy. Nghĩa là gì? Nghĩa là Thầy không phải hiện diện với các con nh ư một Đấng vô hình nữa. Mà đây này: Mình của Thầy, Thân Xác của Thầy đây này. Thầy đang có mặt giữa anh em, với anh em.

Các môn đệ trong buổi ban đầu của Giáo hội đã có kinh nghiệm đó. Thánh Luca thuật lại kinh nghiệm của hai môn đệ trên dường về Emmaus: "Họ đã nhận ra Người thế nào khi người bẻ bánh" ( Lc 24,35). Như thế các môn đệ đã nhận ra Chúa qua cử chỉ bẻ bánh. Cử chỉ bẻ bánh là gì nếu không phải là một cử hành mầu nhiệm Thánh Thể? Nếu không phải là Thánh lễ?

Và kinh nghhệm của chúng ta:
Kinh nghiệm của chúng ta là kinh nhiệm của cầu nguyện và gặp gỡ. Nếu ai có kinh nghiệm chầu Thánh Thể, cầu nguyện trước Thánh Thể thì họ sẽ có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa Giêsu. Dấu hiệu của sự hiện diện đó là tâm hồn họ được bình an. Họ cảm nhận được sự nâng đỡ, được chia sẻ và được cảm thông. Đó cũng là kinh nghiệm của các nhà thần bí, của các tu sĩ sống đời chiêm niệm.

Vì thế, nếu anh chị em và các bạn đồng ý với tôi về những suy nghĩ này , thì xin anh chị em và các bạn đừng bao giờ nói rằng: sao tôi chẳng thấy Chúa trong phép Thánh Thể, cũng chẳng gặp được Chúa trong đời thường? Mà phải hỏi ngược lại: Sao Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thánh Thể chẳng thấy tôi? Vì tôi có đến với Ngài đâu mà Ngài thấy tôi!

Tất cả những chia sẻ này, chỉ muốn nói một điều này thôi: để có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa ta cần có những phút giây có mặt bên Thánh Thể Chúa, nhất là trong Thánh lễ. Chính giây phút đó ta sẽ khám phá ra Chúa Giêsu đang có mặt ở đấy.

CÁC CON LẠI KHÔNG THỨC VỚI THẦY ĐƯỢC MỘT GIỜ SAO?
Mc 14:12-16, 22-26

Hôm nay toàn thể Giáo hội mừng lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Trước khi về trời, Chúa không lỡ bỏ rơi loài người mồ côi, Chúa để lại cho loài người một kỷ vật cao quí là mình máu Thánh Người trong Bí tích Thánh thể để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người, để ban sức mạnh thiêng liêng và an ủi loài người : Đây là mình Thày (Mc 14:22), Đây là máu Thày, máu giao ước đổ ra cho muôn người (Mc 14:24). Cái giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người không phải được ký kết bằng máu hiến tế của chiên cừu, mà Mô-sê đã dùng trong Cựu ước, nhưng bằng máu Con Thiên Chúa như Chúa phán trong Phúc âm hôm nay và được Thánh Phao-lô thuật lại trong Thư gửi tín hữu Do thái (Dt 9:14).

Thánh lễ mi-sa là việc làm mới lại lễ hi sinh thánh giá. Tham dự vào bàn tiệc thánh là dấu chỉ ta chấp nhận giao ước mới với Thiên Chúa. Nếu người công giáo được hỏi xem có tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể không, chắc đa số sẽ trả lời là có. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa người Công giáo và người Tin lành. Người Công giáo tin có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể do lời truyền phép của linh mục. Tuy nhiên đôi khi ta có thể nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa trong Bí tích Mình thánh. Có khi nào ta nghe tiếng cám dỗ bảo ta điều gì không nên tin, việc gì không nên làm, vấn đề gì cần phải được xét lại không? Có bao giờ ta tự hỏi không biết khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép trong thánh lễ :
Này là mình Ta.. Này là máu Ta có thực sự như vậy không? Không biết bánh rượu sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép có thực sự trở thành mình máu thánh Chúa không? Sở có những câu hỏi như vậy là vì ta thấy bánh rượu sau khi được truyền phép trông bề ngoài không có gì khác với bánh rượu trước khi truyền phép ? Có một linh mục kia tự nghĩ nếu quả thật bánh rượu sau khi được truyền phép không phải là mình máu thánh Chúa thì những lần ngài dâng lễ quả là vô ích. Nếu quả thật không có sự biến đổi thực sự do lời truyền phép của linh mục dâng thánh lễ, thì vị linh mục đó không thể tự lừa dối mình, nghĩa là không thể tiếp tục dâng thánh lễ. Và vị linh mục đó lý luận chẳng lẽ từ khi Chúa lập Bí tích Thánh thể và lập chức linh mục đã có cả hàng triệu linh mục trên thế giới đã đọc lại lời Chúa hàng ngày: Đây là mình Ta...Đây là máu Ta lại tiếp tục dâng thánh lễ được sao?

Ta cứ giả sử người công giáo tin trong đầu óc có Chúa hiện diện trong Bí tích Thánh thể, và khi rước lễ là rước mình thánh Chúa. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được bằng con tim có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Mình Máu thánh không lại là chuyện khác. Để có thể cảm nghiệm được có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể, ta hãy đáp lại lời Chúa mời gọi:
Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với ta, ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28). Nếu chưa có kinh nghiệm cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa, ta hãy đến cầu nguyện và thờ lạy trước Mình thánh Chúa, để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút những gánh nặng của cuộc sống, những nỗi khổ tâm của lòng mình vào lòng từ ái của Chúa. Ta có thể cầu nguyện riêng một mình, hay với nhóm, hay chỉ cần ngồi đó thinh lặng để cho lòng mình nói với Chúa. Khi mẹ Teresa, thành Calcutta được hỏi tại sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục phục phụ người nghèo bên An độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời Chúa Thánh thể là sức mạnh của bà và bà cầu nguyện hàng giờ trước Mình thánh Chúa. Chúa bảo ta qua các tông đồ: Các con lại không thức với Thày được một giờ sao (Mc 14:37)?

Để đáp lại lời Chúa mời gọi, ta hãy thức với Chúa một giờ, hãy cầu nguyện với Chúa một giờ trước Thánh thể Chúa, hoặc ban ngày hay ban tối, hoặc với ngưòi khác hay một mình xem ta cảm thấy thế nào? Nếu lần này không cảm thấy gì, thì lần sau, rồi lần sau nữa. Ta hãy thức với Chúa một giờ xem lời Chúa và Mình thánh Chúa có sức tác động và biến đổi tâm hồn và đời sống ta không, xem Chúa có thực sự là sức mạnh, là nguồn vui, là niềm an ủi, là sự cậy trông và là lẽ sống của đời ta không ?

Lm Trần Bình Trọng, USA

CHÚA NHẬT LỄ MÌNH MÁU CHÚA
Mc 14:12-16, 22-26

1. Sự trùng hợp giữa ba biến cố quan trọng

Đã đến thời điểm Đức Giêsu phải sát tế chính bản thân mình làm lễ hy sinh toàn thiêu để thờ phượng Thiên Chúa và đền tội thay cho toàn thể nhân loại. Thời điểm ấy trùng vào dịp mừng lễ Vượt qua hàng năm của người Do-thái. Và cũng nhân dịp này Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể, ngay trong bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua với các tông đồ. Sự trùng hợp giữa ba biến cố này - lễ Vượt Qua, việc lập bí tích Thánh Thể, và cuộc tử nạn phục sinh của Đức Giêsu - ắt phải có một ý nghĩa rất lớn, và ba biến cố này ắt phải liên hệ với nhau rất mật thiết. Chúng ta hãy tìm hiểu.


2. Lễ Vượt Qua của người Do-thái


Đại lễ này bắt nguồn từ biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Do-thái khỏi ách thống trị của Ai Cập, xảy ra trước Đức Giêsu khoảng 1250 năm (x. Xh 7,8-15,21). Nhờ sự can thiệp giải phóng của Thiên Chúa, dân Do-thái được
vượt từ cảnh nô lệ qua tự do. Đức Giêsu cũng đến để giải phóng con người, làm cho họ vượt từ ách nô lệ tội lỗi và ma quỉ qua tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, từ tình trạng chết trong tội lỗi qua tình trạng sống trong ân sủng, từ đau khổ qua hạnh phúc. Ngài thực hiện sự giải phóng đó bằng cả cuộc đời của một vị Thiên-Chúa-Nhập-Thể, đặc biệt bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Cuộc tử nạn và phục sinh này cũng là một cuộc vượt qua: vượt từ cõi chết qua cõi sống, từ tình trạng hay hư nát qua tình trạng bất diệt. Như vậy, cuộc vượt qua của dân Do-thái qua Biển Đỏ là biến cố đi trước làm hình bóng hay ẩn dụ cho cuộc vượt qua của Đức Giêsu, cũng là cuộc vượt qua của những ai tin vào Ngài: vượt từ cảnh nô lệ tội lỗi qua cảnh tự do của con cái Thiên Chúa. Vì thế, việc Đức Giêsu chọn thời điểm mừng lễ Vượt Qua để thực hiện cuộc tử nạn và phục sinh của mình bao hàm một ý nghĩa hết sức sâu xa.

3. Hy tế toàn thiêu và hy tế chiên vượt qua


Để cứu chuộc và giải phóng nhân loại, Đức Giêsu phải trả giá bằng đau khổ tột cùng và chết thê thảm như một của lễ vật bị sát tế dâng lên Thiên Chúa. Để hiểu được sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu là một hy tế thờ phượng Thiên Chúa Cha và đền tội nhân loại, và để hiểu được việc lập bí tích Thánh Thể như một của ăn tâm linh mà Đức Giêsu để lại khi bị sát tế như một lễ vật, chúng ta cần hiểu ít nhiều về lễ hy sinh toàn thiêu và lễ sát tế chiên Vượt Qua của người Do-thái.


Ngày xưa - ít nhất kể từ ông Nôê trở về sau (x. St 8,20) - dân Do-thái thờ phượng Thiên Chúa bằng cách dâng lên Ngài những hy lễ toàn thiêu. Theo tập tục được đặt ra sau này từ thời Môsê, thì người muốn dâng hy lễ toàn thiêu phải đặt tay trên con vật khi nó bị giết để nói lên mình là người chủ muốn dâng lễ vật ấy. Vị tư tế lấy máu của con vật rẩy quanh bàn thờ. Rồi con vật được chặt ra thành mảnh. Vị tư tế đặt các mảnh thịt lên bàn thờ để thiêu hủy hoàn toàn, chứ không phải thiêu cho chín để sau đó đem ăn. Ý nghĩa của lễ toàn thiêu là con người muốn biểu lộ sự toàn phục của mình đối với Thiên Chúa, là Chúa Tể của vũ trụ, có toàn quyền sinh sát trên toàn thể tạo vật. Đáng lẽ con người phải tự sát tế chính mình, nhưng nếu như thế, con người sẽ phải chết, là điều Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người dùng một con vật nào đó tượng trưng cho sinh mạng của mình để giết và thiêu cháy hoàn toàn. Điều này muốn nói lên lòng thành của con người, không tiếc với Thiên Chúa điều gì, vì tất cả đều thuộc về Ngài. Lễ vật toàn thiêu vừa để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, vừa để đền tội và xin ơn cho mình.


Nhưng trước ngày giải phóng dân Do-thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa truyền dạy một hình thức sát tế mới được thực hiện vào các dịp đại lễ Vượt Qua hàng năm. Cách hy tế mới khác với cách cũ ở chỗ: trong hy tế cũ - tức hy lễ toàn thiêu - thì lễ vật bị thiêu hủy hoàn toàn, còn trong hy lễ Vượt Qua thì lễ vật cũng bị sát tế, nhưng bị không thiêu hủy hoàn toàn: thịt con vật chỉ được nướng lên để sau đó con người ăn nó (xem Xh 12,3-14). Trong nghi thức sát tế mới này con người cũng được dự phần vào lễ vật, và lễ vật trở thành của ăn nuôi dưỡng con người. Đây chính là hình bóng hay ẩn dụ cho bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập vào dịp này.


4. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu với hy lễ Thánh Thể


Cuộc tử nạn của Đức Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là chủ dâng, vừa là tư tế, vừa là lễ vật. Bình thường ba khoản này khác nhau; tuy nhiên, cũng có thể chủ dâng cũng là tư tế, nhưng cả hai người ấy dường như không bao giờ lại là lễ vật. Vì lễ vật là đối tượng bị giết, chịu đau khổ và chết thay cho chủ dâng hay thay cho kẻ có tội phải đền mạng. Trong hy lễ toàn thiêu này, Đức Giêsu tự nguyện làm lễ vật bị sát tế, chẳng những để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa thay cho con người, mà còn để đền tội cho toàn thể nhân loại, đồng thời xin ơn tha thứ cho họ. Sự tự nguyện khủng khiếp này chỉ có thể phát xuất từ tình yêu cao cả đối với Thiên Chúa và toàn thể con người, đồng thời từ sự toàn phục đối với Thiên Chúa Cha.


Nhưng hy lễ này, Đức Giêsu không muốn thực hiện theo kiểu hy lễ toàn thiêu, trong đó lễ vật hoàn toàn bị thiêu hủy. Kiểu hy tế ấy biểu hiện tính «
vì Thiên Chúa» một cách triệt để. Ngài muốn thực hiện hy lễ của Ngài theo kiểu hy lễ chiên vượt qua, trong đó lễ vật ngoài việc dâng hiến cho Thiên Chúa, còn trở nên của ăn cho con người. Kiểu hy tế này mang tính hai chiều: vừa «vì Thiên Chúa» mà cũng vừa «vì con người ». Đó là hai chiều kích căn bản trong việc nhập thể của Ngài và trong Giao Ước Mới do Ngài thiết lập. Khi tự nguyện làm lễ vật bị giết, Ngài chọn chết trên thập giá - là bàn thờ của hy tế này - được cấu tạo bằng hai chiều ngang và dọc, tượng trưng cho hai chiều kích căn bản ấy.

5. Tình yêu Đức Giêsu dành cho con người


Vì thế, trước khi ra đi chịu tử hình thập giá, tự nguyện làm «
Con Chiên Vượt Qua» bị sát tế, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Ngài trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Tôi thật xúc động khi nghĩ đến điều này. Ngài vốn là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài lại yêu thương con người chúng ta vô hạn. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là một đối trọng cho tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa. Và chính Thiên Chúa cũng hài lòng khi thấy Con mình biết chia sẻ cho nhân loại tình yêu mà đáng lẽ phải dành trọn vẹn cho mình. Tại sao? Chính vì Thiên Chúa cũng yêu thương con người. Điều này có phần nào tương tự như người chồng đòi hỏi người vợ phải dành trọn vẹn tình yêu và sự trìu mến cho mình, nhưng lại rất hài lòng khi thấy vợ mình chia sẻ tình yêu và sự trìu mến ấy cho con cái, vì chính người chồng cũng yêu thương con cái không kém gì người vợ. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa đã chia sẻ cho chúng ta tình yêu mà đáng lẽ các Ngài phải dành trọn vẹn cho nhau. Điều đó chúng ta thấy được nơi Đức Giêsu.

Ngài đến thế gian không chỉ nghĩ đến việc thi hành thánh ý Chúa Cha, đến việc biểu lộ tình yêu, sự vâng phục đối với Chúa Cha, mà còn nghĩ rất nhiều đến con người, đến việc sáng kiến ra những điều Ngài có thể làm cho con người. Ngài yêu con người, chắc chắn không chỉ vì con người là tạo vật của Thiên Chúa được nâng lên hàng con cái Ngài, mà còn vì thấy con người rất đáng thương, quá đau khổ do tội lỗi. Càng chia sẻ đau khổ với con người, càng cảm nghiệm được sự dày vò khó chịu của đau khổ, Ngài càng yêu thương con người hơn. Tình yêu đầy tính cảm thông đó khiến Ngài không chỉ đau khổ và chết thay cho chúng ta, mà còn mà trở nên của ăn để nuôi dưỡng chúng ta, để ở lại với chúng ta, để có thể ban sức mạnh thần thiêng cho chúng ta, để đời sống chúng ta nên mạnh mẽ, hạnh phúc hơn.


6. Áp dụng tinh thần yêu thương của Đức Giêsu vào đời sống


Thiên Chúa cảm thông và yêu thương chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta lại không cảm thông và yêu thương nhau? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích: yêu Thiên Chúa và thương con người, lẽ nào chúng ta cùng là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau? Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại sao? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa - Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề ích kỷ - Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng những người chung quanh đang sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan tâm tới Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu: chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên
«của ăn» cho anh chị em mình nữa.

Cầu nguyện


Lạy Cha, Đức Giêsu là Thiên Chúa mà lại yêu thương con người như vậy, đang khi chúng con cùng là con người với nhau, cùng chịu đau khổ như nhau, mà chúng con lại không thông cảm với nhau, không yêu thương nhau, không quan tâm tới nhau. Chúng con quá ích kỷ, tình yêu của chúng con quá nghèo nàn. Xin Cha hãy ban tình yêu cho chúng con
.

John Nguyễn

BÁNH TRƯỜNG SINH
Mc 14:12-16, 22-26

Trong một buổi sinh hoạt, có một cụ già đã kể lại câu chuyện này:" Vào tháng 5, đã nhiều năm lắm rồi, một trận cuồng phong chưa bao giờ có, đã làm ngã đổ biết bao nhiêu gia đình, bao người màn trời chiếu đất. Một cảnh thương tâm đã làm xúc động nhiều người: một gia đình kia bị gió làm sập nhà, đã đè chết người vợ, để lại chồng và ba đứa con dại, trước khi nhắm mắt lià đời, bà đã rút chiếc nhẫn cưới trao cho chồng và thều thào trong hơi thở cuối cùng và cố nói: "Anh hãy giữ lấy báu vật này". Chiếc nhẫn cưới là bảo vật quí giá nhất mà hai vợ chồng khi cưới đã trao cho nhau như lời thề nguyền yêu thương, trung tín nhất. Mỗi khi nhìn vào chiếc nhẫn cưới người ta cảm thấy an lòng và được yên ủi vì nó là biểu tượng của tình yêu chung thủy và son sắt nhất. Hình ảnh của người vợ rút chiếc nhẫn, trao cho chồng là lời trối quí giá, là lời dặn dò và là cử chỉ tình thương chung thủy, người vợ nhắn nhủ chồng mình trước khi biết mình không thể nào tồn tại ở thế gian nữa.

Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ, đã để lại một lời trăn trối không tiền khoáng hậu cho các môn đệ và cho nhân loại, Ngài để lại chính Thịt Máu của Mình để nuôi sống nhân loại.


Vào chiều thứ năm trong bữa tiệc ly, cách đây hơn hai nghìn năm, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đang ăn bữa vượt qua, nghĩa là bữa ăn cuối cùng của Ngài với các đệ tử thân tín của Ngài, trước khi Ngài thực hiện ý định của Cha cứu độ nhân loại( Lc 22,5-16 và Ga 13,1 ). Lễ vượt qua là ngày lễ trọng nhất của người Do Thái, lễ để cho người Do Thái tưởng nhớ tới hồng ân cao cả Thiên Chúa đã giải cứu dân ra khỏi đất Ai Cập. Trong lễ vượt qua này, người Do Thái ăn bánh không men với thịt chiên nướng, rau diếp đắng và uống rượu nho. Chúa Giêsu đã giữ đúng các nghi thức ăn lễ vượt qua của người Do Thái một cách hết sức tỉ mỉ với các môn đệ trong bữa tiệc ly. Một biến cố muôn đời tồn tại, đáng ghi nhớ đã xẩy ra trong bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu, Ngài đã chỗi dậy nửa chừng giữa bữa ăn, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu, đoạn rửa chân cho các môn đệ, lấy thắt lưng mà lau, rồi về chỗ của mình( Ga 13, 4-15 ). Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, trước khi lập Bí Tích


Thánh Thể ban Bánh trường sinh là Mình Máu của Ngài, để nói cho các môn đệ và thế giới biết rằng: Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu. Chính vì tình yêu mà Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể. Tình yêu nối kết mọi người, để tất cả những ai lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô, lãnh nhận Bánh trường sinh là Máu và Thân Xác Chúa Kitô cũng được có sự sống đời đời, vì khi lãnh nhận Mình Máu Chúa là trở nên như thánh Phaolô đã viết:"
Chén chúc tụng ta cầm mà đội ơn, lại không phải là thông phần Mình Máu Chúa Kitô sao? Vì chưng chỉ có một bánh, nên tuy ta là nhiều, ta cũng chỉ là một thân mình, vì hết thảy ta cùng chia phần một bánh"( 1Co 10,16-17).

Chúa Giêsu là chiên lễ vượt qua mới. Chúa chịu sát tế để cứu chuộc mọi người. Tin Mừng hôm nay cũng cho ta hay Chúa Giêsu và các môn đệ đang sống Giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Chúa lập Bí Tích Thánh Thể và truyền cho các tông đồ làm lại nghi lễ đó để tưởng niệm cuộc tử nạn của Chúa.Khi Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ
ơn, trao cho các môn đệ và cầm lấy chén rượu cũng tạ ơn Chúa Cha,rồi trao cho các môn đệ,Ngài nói cho các môn đệ về chính Mình và Máu của Ngài, về cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài, Ngài cứu chuộc cho nhiều người. Các môn đệ với con số 12 đại diện cho toàn nhân loại, đại diện cho nhiều người, đang đồng bàn với Chúa Giêsu, họ cũng chỉ là những con người yếu đuối, tội lỗi, phản bội, những con người sợ chết, chạy thục mạng để thoát thân vì trong cuộc thương khó của Chúa, họ sợ cũng bị bắt như Thầy. Các môn đệ khi cử hành lại lễ hy tế của Chúa Giêsu nơi bàn thánh, họ được Chúa loan báo ơn tha thứ và rồi khi Chúa sống lại với con người bất xứng, yếu đuối, các môn đệ khi cử hành hy tế thập giá, họ được Chúa ban ơn giao hòa, được thứ tha và được lãnh nhận ơn cứu độ. Bí Tích Thánh Thể trở nên vĩnh cửu, tồn tại tới muôn muôn đời...

Cử chỉ của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cùng với lời truyền của Ngài: "
Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta ", đã là lệnh khẩn cấp cho Giáo Hội để Hội Thánh tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu và của các tông đồ: tiếp tục cử hành nghi lễ tạ ơn. Nghi lễ tạ ơn được cử hành dựa theo lời Chúa và cách thức của Chúa đã làm:" Đang lúc họ ăn, thì Đức Giêsu cầm lấy bánh và chúc tụng, rồi bẻ ra và ban cho họ, Ngài nói: Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta. Đoạn cầm lấy chén và tạ ơn, Ngài ban cho họ mà rằng: Hãy uống chén này hết thảy, vì này là Máu Ta, Máu Giao ước, đổ ra vì nhiều người, để nên ơn tha tội"( Mt 26, 26-28 ). Thánh Phaolô sau này cũng nói:" Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em hãy loan truyền sự chết của Chúa, cho đến khi Chúa lại đến"( 1 Co 11, 26 ). Giáo Hội ngay từ thuở ban đầu cho tới ngày nay không ngừng cử hành cuộc hy tế của Chúa xưa trên thập giá. Người Kitô hữu khi tới nhà thờ hiệp dâng thánh lễ, cử hành Bí Tích Tạ Ơn, đã muốn cho thánh lễ được nối dài trong đời sống và ngược lại đời sống của người Kitô hữu phải là thánh lễ nối dài. Thánh lễ của người Kitô hữu phải là khởi điểm và kết thúc cho một sự dấn thân mới, một sự chọn lựa sống Tin Mừng: yêu thương, quảng đại, trung tín và chia sẻ. Một sự dấn thân theo Tin Mừng sẽ giúp cho người Kitô hữu sống Bí Tích Thánh Thể sâu xa và đầy niềm tin.

Người đàn bà trước khi lià đời đã trao cho chồng chiếc nhẫn ngày cưới để nói lên với chồng bà luôn yêu thương, luôn chung thủy với chồng và gần gũi các con của bà. Chúa Giêsu khi lập Bí Tích Thánh Thể tức Bí Tích Tình Yêu đã chỉ ra rằng Ngài luôn hiện diện, luôn yêu thương nhân loại, yêu thương mọi người bằng chính sự hy sinh cao cả của Ngài là chết vì yêu:"
Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu"( Ga 15, 13 ). Chúa luôn hiện diện giữa mọi người, giữa nhân loại, Ngài tiếp tục yêu thương nuôi dưỡng con người bằng chính Mình Máu Thánh của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho nhân loại luôn biết yêu mến và tôn kính Bí Tích Thánh Thể.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

MỘT BỮA ĂN ĐÁNG GHI NHỚ MUÔN ĐỜI
Mc 14: 12-16, 22-26

Mặc dù tuổi đời đã ngoài 70, song tôi không sao quên được những kỷ-niệm của ngày còn thơ. Một trong những kỷ-niệm khó quên ấy là bữa cơm chiều. Dưới ánh đèn dầu leo lét, hoặc dưới ánh trăng vàng sáng tỏ, cả nhà quây quần bên mâm cơm, tuy chỉ có muối dưa thanh đạm nhưng dạt dào tình thương.Làm sao tôi quên được bữa cơm gia-đình, ngày tôi đi vào Tiểu-chủng-viện lúc mới lên 12 tuổi.Làm sao tôi quên được bữa cơm gia-đình, ngày tôi lên đường nhập ngũ.

Trong lịch sử cứu-độ, cũng có những bữa ăn đáng được ghi nhớ muôn đời.Dân Israel làm sao có thể quên được bữa ăn vội vả trưóc ngày được cứu thoát khỏi cảnh nô-lệ lầm than nơi đất Ai-cập ( Lễ Vượt-qua).Các môn đệ làm sao quên đuợc bữa ăn cuối cùng với Thầy mình đêm hôm thứ Năm trước khi Thầy mình tử-nạn(Tiệc-ly).


Khi ta được mời đến nhà bạn ăn một bữa cơm, ta như là được mời đến chia sẻ đời sống của bạn trong một khoảng thời gian. Không phải chỉ được thưởng-thức những món ngon vật lạ, nhưng là để nối kết lại, hoặc phong-phú thêm mối tương-giao giữa ta và bạn.


Dưới chân núi Sinai hôm ấy, sau khi giao-ước đã được ký kết, cùng với lễ vật toàn- thiêu tiến dâng Đức Chúa, dùng phần lễ vật còn lại, dân chúng ăn mừng, nhảy múa trước nhan Đức Chúa, khởi đầu cho một tương-giao mới. Dấu chỉ mọi tội lỗi đã được tẩy xoá và được mời gọi gia-nhập vào gia-đình của Đức Chúa. Giao-ước được xác nhận bằng hy-sinh (sát tế) ấn dấu của sự tín-thác hoàn toàn và được kết thúc bằng bữa ăn lớn (tiệc), ấn dấu của giao-ước đã được xác-định, được nuôi dưỡng và thăng-tiến.


Hôm nay giáo-hội mừng Lễ Mình Máu thánh Chúa, kỷ niệm bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Kẻ ra đi ngậm ngùi thương người còn ở lại, nhất là đối với Đức Giêsu, con người rất giàu tình-cảm. Người đã một lần hứa : Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 18:20). Bí-tích Thánh-thể là dấu chỉ sự hiện-diện tích cực của Người ở giữa chúng ta và trong chúng ta nữa: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong ngưòi ấy (Ga 6:56) và bảo-đảm chắc chắn rằng chúng ta sẽ được gặp lại Người: Ai ăn bánh nầy sẽ sống muôn đời.(Ga 6:58).


Hằng tuần, chúng ta được mời đến đây tham dự bàn tiệc Thánh-thể, hay nói đúng hơn là hiệp dâng Thánh-lễ, mà của lễ chính là Đức Giêsu và của lễ cũng là chính chúng ta nữa. Chúng ta đang chứng kiến một phép lạ cả-thể. Sau khi Linh-mục đọc lời truyền phép, bánh và rượu trở nên máu, thịt Con Người. Chúng ta có tin không điều ấy không? Thưa, chúng tôi tin! Cũng như dân Do-thái xưa họ đã thưa: Tất cả những gì Đức Chúa phán ra chúng tôi sẽ tuân giữ và thi hành (Xh 24:7).


Tham dự Hội ngộ Niềm tin tại Roma vào cuối tháng Bảy nầy, đoàn chúng tôi có chương trình sẽ đến viếng thành phố Orvieto, nơi mà năm 1263, một vị Linh mục người Hung gia lợi hồ nghi về sự hiện diện của Chúa trong bí-tích Thánh-thể. Đang khi dâng thánh lễ, lúc truyền phép, ngài nâng tấm bánh lên, bánh trở nên thịt và có máu chảy ra nhỏ giọt trên khăn thánh. Chứng tích nầy còn lưu giữ tại Vương cung thánh đường của thành-phố. Hy vọng chúng tôi sẽ được nhìn tận mắt chiếc khăn đẩm máu nầy.


Mừng lễ Mình, Máu thánh Chúa, mừng việc Chúa biến bánh và rượu trở nên máu, thịt của Người và Người cũng dùng quyền năng của Người để biến chúng ta thành những tấm bánh nữa.


Mùa hè năm nay có nhiều Phó-tế được thụ phong Linh mục. Trong lễ mở tay, lúc đọc lời truyền: Nầy là mình ta, vị Linh mục ấy thực sự đã trở nên tấm bánh của mọi người. Đức cha Cassaigne, từ chức Giám mục Sàigòn, lên sống với người cùi tại Di-linh, ngài thực sự đã trở nên tấm bánh của những người cùng khốn nầy trong suốt 18 năm trời. Vị mục tử là tấm bánh của đàn chiên. Thầy cô giáo là tấm bánh của học trò. Người cha là tấm bánh của gia-đình. Người mẹ là tấm bánh của đàn con. Vợ chồng là tấm bánh của nhau và tất cả chúng ta đều là tấm bánh cho nhau.


Vây quanh bàn thánh, cùng ăn chung một thứ bánh, cùng uống chung một thứ rượu, chúng ta thực sự trở nên nhiệm thể của Đức Kitô (Body of Christ) trong yêu thương và hiệp nhất. Cho nhau nụ cười, cái bắt tay thân mật, lời nói dịu dàng, cử chỉ lịch thiệp, gương lành bác ái, giúp nhau trong lúc hoạn nạn.. . đó là những tấm bánh mà chúng ta mang đến cho nhau. Đó là bí-tích Thánh-thể, Bí-tích của tình yêu.


Qua sự hiện-diện của Đức Kitô trong bí-tích Thánh-thể, Chúa đã kéo trời và đất lại gần nhau, xin Chúa cũng liên kết chúng con nên một, để một ngày kia tất cả chúng con quay quần bên nhau quanh bàn tiệc Nước Trời.

Phó tế Jos Huỳnh Văn Ngọc

CHÚA NHẬT LỄ MÌNH MÁU CHÚA GIÊSU
Mc 14.12-16

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một bữa ăn. Ðó là bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu và các môn đệ. Bữa ăn mà chúng ta quen gọi một cách trang trọng là bữa tiệc ly. Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể sau khi đã tâm sự hết với các môn đệ. Chúa Giêsu đã dùng bữa ăn cuối cùng với các ông vào đúng ngày người Do-thái ăn mừng lễ Vượt qua.

Ăn uống lả nhu cầu thiết yếu của đời sống. Người ta ăn để sống và có sức khỏe làm việc. Ðã ngồi ăn chung với nhau là người ta phải có mối liên hệ nào đó với nhau. Còn biết ngồi ăn chung với nhau là dấu hiệu người ta còn quan tâm đến nhau. Những người cùng một gia đình, họ hàng, dòng tộc, bạn bè, đồng nghiệp thường hay ngồi ăn với nhau. Họ ngồi ăn chung với nhau để trao đổi công việc hàn huyên tâm sự, lắng nghe, chia sẻ và gỡ rối mọi khúc mắc. Sau một bữa ăn với nhau, người ta hiểu thêm về nhau và tình người được hâm nóng.


Hơn ai hết, Ðức Giêsu đã thấy rõ giá trị cần thiết của một bữa ăn. Ðối với Ngài, ăn chung không chỉ đơn thuần là để no cái thân xác, mà nhất thiết là tinh thần được thỏa mãn. Ngoài ra món ăn tinh thần và món ăn thiêng liêng còn cần thiết hơn món ăn vật chất nữa. Chính vì thế, mà trong cuộc đời công khai, Ðức Giêsu đã nhiều lần dùng bữa với người này người nọ. Chúa đã đi ăn tiệc cưới của người bà con ở Cana. Chúa đã dùng bữa nhà ông Giakêu. Chúa đã ăn bữa cơm thịnh soạn ở nhà ông Lagiarô. Ngài bị chỉ trích vì ngồi đồng bàn với người tội lỗi và những người Pharisêu. Tất cả những bữa ăn đó đều đem lại ơn ích cho ngườI có lòng mời Chúa. Trường hợp tiệc cưới Cana và bữa ăn ở nhà ông Giakê là một điển hình: Họ đã được hưởng một niềm vui trọn vẹn của bữa tiệc mừng.Chúa ra tay cứu giúp trong những bế tắc mà nhiều khi họ cũng không ngờ. Song đỉnh cao của các bữa ăn chính là bữa tiệc ly của Chúa trước khi chịu chết. Đó là một bữa ăn giá trị cứu độ con người. Một bữa ăn không thể nào quên trong trí nhớ của những người được kêu mời là môn đệ. Chúng ta hôm nay cũng đang được tham dự bữa ăn đó qua thánh lễ. Bữa ăn đó là tiền thân của Thánh lễ hôm nay. Thánh lễ là hiện thực lại bữa ăn cuối cùng của Chúa.


Bởi trong thánh lễ Chúa Giêsu ban chính Mình và Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng ta. Nhờ sự chết và Phục Sinh của Chúa con người được mời gọi tham dự vào sự sống vĩnh cửu qua việc tham dự thánh lễ.Trước tiên, Chúa Giêsu là lương thực của bữa ăn của đại gia đình dân Chúa. Ðồng thời Ngài cũng là chủ tiệc, là người đồng bàn với chúng ta. Tham dự thánh lễ là chúng ta nối liên lạc yêu thương với Ngài. Chúng ta được gặp gỡ chính Ngài là thượng nguồn của sự sống. Chúng ta ăn và uống Mình và Máu Ngài để được sống viên mãn trong Thiên Chúa. Là người đồng bàn, Ngài lắng nghe chúng ta tâm sự qua những lời cầu nguyện của cộng đoàn trong thánh lễ.


Như vậy, thánh lễ là trung tâm cuộc sống của người tín hữu, luôn chi phối mọi hành động của chúng ta, là cơ quan đầu não điều khiển cho chúng ta biết sống trong mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Khi đi tham dự thánh lễ đức tin của chúng ta sẽ được vững vàng, sẽ không còn những giằng co tranh chấp, những ham muốn ích kỷ, chúng ta tự biết làm gì cho Chúa và cho tha nhân.


Nhân ngày lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay, chúng ta đã có dịp đào sâu về giá trị của thánh lễ và bí tích Thánh Thể. Chúng ta phải biết thay đổi suy nghĩ chỉ xem Thánh lễ như là một thói quen, hay là một gánh nặng phải thực hiện, một việc xưa cũ nhàm chán, mà biết tím được trong thánh lễ một nguồn sức dồi dào để chúng ta cảm thấy phấn khởi hào hứng khi đến thánh đường của giáo xứ tham dự thánh lễ mỗi Chúa Nhật.


Lạy Chúa, nhiều khi chúng con đến tham dự thánh lễ ở nhà thờ mà tâm hồn lại để ở nơi khác. Chúng con tận dụng cả giờ lễ để lo nghĩ cho một công việc sắp làm hoặc đã làm mà còn đang dở dang. nhiều khi chúng con đã quên mất gái trị cứu độ của Thánh lễ. Xin cho chúng con biết quý trọng thánh lễ như một viên ngọc quý, để chúng con được sống bằng chính sự sống của Chúa. Vì trong thánh lễ Chúa đã ban Mình Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng con
. Amen

Martin Lê Hoàng Vũ

CHÚA NHẬT LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ B
Mc 14, 12-16. 22-26

Trong Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã cùng nhau suy niệm về tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một tình yêu rộng mở, một tình yêu luôn tôn trọng và làm cho người mình yêu ngày càng phát triển sung mãn hơn. Chính nhờ tình yêu đó, Ba Ngôi đã trở nên một, và cho dù chỉ có một Chúa, nhưng vẫn là Ba Ngôi. Và khi mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn từng người chúng ta cũng biết sống yêu thương như Ngài. Thế nhưng, thành thực với lòng mình, chúng ta cảm nhận được rằng sống yêu thương theo mẫu gương Ba Ngôi không phải là chuyện dễ. Cảm thông được sự giới hạn của chúng ta, trước lúc về Trời, Đấng Phục Sinh đã hứa: "Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".

Và để thực hiện lời hứa ấy, Đức Giêsu đã lập nên bí tích Thánh Thể, để lại Mình và Máu Ngài làm lương thực và là nguồn sức mạnh cho chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế này. Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa nơi Đức Giêsu thực sự ở cùng chúng ta "
mọi ngày cho đến tận thế". Như thế, Thánh Thể chính là dấu chứng của một lời hứa, một giao ước đã trở thành hiện thực.

I. TỪ GIAO ƯỚC SINAI...


Bí tích Thánh Thể chính là giao ước mới, Đức Giêsu đã lập để kiện toàn giao ước mà trước đó, Thiên Chúa đã ký với dân Do thái tại núi Sinai mà chúng ta vừa nghe trong bài sách Xuất Hành. Lúc đó dân Do thái vừa ra khỏi Ai Cập. Khi cả đoàn dân đến chân núi Sinai, Môisen đã đọc lại cho dân nghe toàn bộ giao ước của Thiên Chúa đối với dân. Sau khi nghe xong, họ đã đồng thanh thưa lại: "
Chúng tôi xin thi hành và tuân theo tất cả những điều Chúa đã phán". Sau đó, ông giết những con bò tơ làm hy lễ giao hoà, đồng thời, lấy nửa máu của chúng rảy lên bàn thờ, tượng trưng cho Thiên Chúa, và nửa còn lại rảy lên dân. Với việc rảy máu lên bàn thờ và dân chúng cho thấy sự nối kết chặt chẽ giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Từ đây, dân được thông hiệp vào sự sống Thiên Chúa, bởi máu chính là tượng trưng cho sự sống.

Với giao ước này, dân tộc Do Thái chính thức trở thành dân của Thiên Chúa và Ngài sẽ là Chúa của họ. Từ đây, Thiên Chúa sẽ luôn đồng hành và gìn giữ họ. Giao ước này, còn là một dấu chứng nhắc nhở họ về quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã dùng cánh tay hùng mạnh của Ngài đưa họ Vượt Qua Biển Đỏ, giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Giao ước này đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc Do Thái. Hơn nữa, giao ước này còn là biểu hiện của một tình yêu vô cùng lớn lao của Thiên Chúa. Một tình yêu đã thúc đẩy Thiên Chúa vô biên hạ mình để kết ước với một thụ tạo giới hạn là con người.


II. ... ĐẾN GIAO ƯỚC CỦA ĐỨC KITÔ


Tuy nhiên, suốt dọc dài lịch sử của mình, dân Do Thái đã nhiều lần phản bội lại giao ước này. Hơn nữa, giao ước Sinai vẫn còn những giới hạn. Nó không đủ sức thanh tẩy tận cõi lòng thâm sâu của mỗi người. Nó cũng không đủ sức đem lại cho con người một sự sống mới. Giao ước này chỉ là hình bóng báo trước một giao ước mới, hoàn hảo hơn, Giao ước mà Đức Giêsu sẽ ký kết bằng chính Máu của Người đổ ra trên thập giá.


Thánh sử Marcô thuật lại: "
Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người". Như thế, Giao ước mới của do chính Đức Giêsu thiết lập không còn giới hạn nơi dân Do thái nữa, nhưng là cho "nhiều người", trong đó có chúng ta. Giao ước này có một giá trị vô biên và vĩnh cửu vì đã được ký không phải bằng máu chiên bò, nhưng bằng chính Máu của Con Thiên Chúa như lời khẳng định của tác giả thư Do thái, mà chúng ta vừa nghe: "Chúa Kitô xuất hiện như vị Thượng Tế cầu bầu mọi phúc lành tương lai. Người đi qua nhà tạm rộng rãi và hoàn hảo hơn, không phải do tay người phàm xây dựng,..., cũng không nhờ máu dê bò, nhưng nhờ chính máu của Người mà vào Cung Thánh chỉ một lần và đem lại ơn cứu độ muôn đời". Và tác giả kết luận: "Máu đó sẽ tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những việc sinh sự chết, khiến chúng ta có thể phụng sự Thiên Chúa hằng sống. Vì vậy, Chúa Kitô là trung gian của Tân ước, vì nhờ sự chết của Người để cứu chuộc tội phạm dưới thời Cựu ước".

Tóm lại, với hiến tế thập giá của mình, Đức Giêsu đã thiết lập một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, giao ước của tình yêu. Cùng với Giao ước mới này, Đức Giêsu còn để lại cho chúng ta Mình và Máu Thánh Ngài làm lương thực bổ sức cho linh hồn chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế và nhờ Thánh Thể, lời hứa "Thầy
sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế" đã trở nên hiện thực.

III. VÀ CHÚNG TA HÔM NAY :


Đức Giêsu đã hứa ở cùng chúng ta và Ngài đã giữ trọn lời hứa đó khi lập bí tích Thánh Thể. Thánh Thể quả thực là một hồng ân bao la vượt quá sự tưởng tượng của chúng ta, một Thiên Chúa lại lấy chính Thịt và Máu mình làm của ăn cho chúng ta. Ý thức điều đó, Giáo Hội đã mượn lời của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca để nói lên tâm tình của mình: "
Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi?". Quả thực, chúng ta sẽ chẳng có thể lấy bất cứ điều gì, hay làm gì để tạ ơn cho cân xứng, bởi vì tất cả đều là của Chúa. Và nếu chúng ta muốn làm một điều gì đó, thì có lẽ đó là ca ngợi và giữ trọn lời dạy của Ngài theo mẫu gương của tác giả Thánh vịnh: "Tôi sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sính lễ. Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài".

Mặt khác, Thánh Thể là bí tích của Tình yêu, mà tình yêu thật thì luôn tôn trọng tự do của người mình yêu. Tình yêu thật không có sự cưỡng ép. Do đó, Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Như thế, phần còn lại là của chúng ta, hay nói theo cách nói của sách Khải huyền: Ngài đã đến và đứng trước cửa và gõ, nếu chúng ta mở cửa thì Ngài sẽ vào và ở lại dùng bữa với chúng ta. Còn nếu như chúng ta đóng kín cửa lòng mình lại, thì chắc chắn, dù có muốn Ngài cũng thể vào được (x. Kh 3, 20).


Khi lập nên bí tích Thánh Thể, Đức Kitô đã giữ trọn lời giao ước ở cùng chúng ta, và muốn trở nên một với chúng ta. Phần tôi và quý ông bà anh chị em, chúng ta vẫn nói mình yêu Chúa. Thế nhưng, chúng ta vẫn ơ hờ với bí tích Thánh Thể. Chỉ cần một lý do rất vụn vặt như: một cuộc hẹn với bạn bè, một bộ film trên truyền hình, một cuộc đi chơi... là chúng ta dễ dàng bỏ Thánh lễ, nơi cử hành hiến tế của tình yêu. Thậm chí khi đã đến nhà thờ dâng Thánh lễ, chúng ta cũng chẳng tha thiết gì đến việc hiệp lễ. Lúc nào thích thì lên rước lễ, còn không thích thì thôi. Và nếu chúng ta sống như thế, thì lời nói "
Yêu Chúa" của chúng ta có thật không? Hay là tất cả chúng ta đang là những kẻ nói dối một cách công khai: Dối Chúa và dối anh chị em mình?

Ước gì kể từ giờ phút này, từng người chúng ta ý thức nhiều hơn đến tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể. Đồng thời, chúng ta hãy giữ trọn giao ước tình yêu với Thiên Chúa bằng một quyết tâm siêng năng tham dự Thánh Lễ và hiệp lễ mỗi khi có thể. Và nhờ sức mạnh của Thánh Thể ở trong mình, khi trở về nhà chúng ta cũng sẽ hết lòng sống yêu thương, hiến mình vì anh em như Ngài đã sống. Amen.

Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

MẦU NHIỆM TÌNH YÊU
Mc 14, 12-16.22-26

Giáo Hội hôm nay hân hoan mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Trong niềm vui được làm con cái Chúa, toàn thể dân Chúa quỳ gối, phủ phục trước một bí tích vô cùng cao cả: Bí Tích Thánh Thể. Đây là bí tích lớn lao đã làm cho tất cả mọi người phải suy phục tôn kính vì chính Đức Kitô đã hiến thân chịu chết để cho con người được sống và được nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu của Ngài. Tìm hiểu ý nghĩa của lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô là mục đích chính của chúng ta hôm nay.

Đọc lại Tin Mừng, chúng ta hiểu được một cách rất rõ ràng: "Chính Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể vào chiều thứ năm tuần thánh ". Quả thực, biến cố chết của Chúa không chỉ có ý nghĩa cứu chuộc một lần rồi hết, nhưng ngang qua biến cố tử nạn phục sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ và cả nhân loại một bí tích cao cả, quí hơn mọi sự trên trần gian này: Ngài đã để lại cho nhân loại bí tích tình yêu, Ngài đã lấy chính Mình Máu của Ngài để nuôi sống nhân loại. Soi chiếu lại biến cố vĩ đại ấy, bài sách xuất hành cho thấy ông Môsê đã dựa theo các tập tục phổ quát trong toàn cõi Trung Đông, dùng máu của con bò tơ rảy trên hy lễ để nói lên ý nghĩa của giao ước giữa Thiên Chúa và dân của Người. Chúa Giêsu dùng chính ngôn ngữ của ông Môsê đã dùng để kêu mời các môn đệ dùng bữa tiệc thánh đầu tiên:" Đây là Máu của giao ước". Tuy nhiên, thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Do Thái cho biết Giao ước mới và vĩnh cửu này sẽ được chính Máu Đức Kitô đóng ấn. Chúa Giêsu đã lập nên bí tích tình yêu, bí tích lớn lao,cao quí khiến nó có sức mạnh nuôi sống con người về mặt linh thiêng và cả về phần xác nữa. Chúa Giêsu vào chiều thứ năm tuần thánh, đã tụ họp các môn đệ lại và trong khi dùng bữa với họ, Ngài đã lập bí tích thánh thể cho con người muôn thời được hưởng nhờ. Công bố bữa tiệc ly cuối cùng, Chúa Giêsu đã để lại bí tích thánh thể:" Đương lúc họ ăn, thì Đức Giêsu cầm lấy bánh và chúc tụng rồi bẻ ra và ban cho họ,Ngài nói:" Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta. ( Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối ), Ngài cầm lấy chén và tạ ơn, Ngài ban cho họ và nói rằng:" Hãy uống chén này hết thảy. Vì này là Máu Ta, Máu giao ước đổ ra vì nhiều người để nên ơn tha tội:"Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta".( Mt 26, 26-29; Mc 14, 22-25; Lc 22,19-22 ). Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một bí tích lớn lao khiến mọi người được thừa hưởng chính Mình và Máu Thánh Chúa. Đó là hồng ân, là niềm tin mà mọi người Kitô hữu đều phải tuyên xưng.


Thánh Phaolô cũng minh chứng về bí tích Chúa Giêsu đã lập ra, Ngài nói:" Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp, Ngài đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra mà nói : Này là Mình Ta vì các ngươi, hãy làm sự này mà nhớ đến Ta. Cũng vậy, về chén, sau khi đã dùng bữa ăn tối xong, Ngài nói: Chén này là giao ước mới trong máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống, mà nhớ đến Ta. Vì mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa, cho tới lúc Ngài đến ( 1 Co 11, 23-26 ). Thánh Phaolô gọi là hiệp thông, vì mọi người đều thông hiệp vào một bánh và một chén rượu là Máu Đức Giêsu Kitô.


Là con cái Thiên Chúa, chúng ta cùng hiệp thông vào một bánh tức là Thân Mình và Máu Chúa Kitô. Đó là sự thông hiệp kỳ diệu trong tình thương của Chúa. Bí tích Chúa lập ra là bí tích tình thương, vì tình thương con người được liên kết trong một thân thể của Chúa. Mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa có ý nghĩa làm cho con người được hòa hợp, liên kết trong tình yêu của Chúa. Đức Giêsu Kitô đã nối kết mọi người trong một thân thể của Chúa. Ngài là đầu và mọi người đều là chi thể của Chúa Giêsu. Ngài ước nguyện cho mọi người nên một như Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Cha. Trong niềm tin vì có Chúa là Cha, có Chúa nuôi dưỡng con người bằng chính Thân xác và Máu của Ngài. Chúng ta được sống trong hạnh phúc vì có Chúa nuôi dưỡng ta: Chúa là Mục Tử, có Chúa chăn nuôi ta, ta chẳng thiếu thốn gì ( Tv 21 ). Lời của Chúa thật là xác đáng và an ủi biết bao ! Do đó, hiến lễ tạ ơn Chúa để lại cho ta trong bữa tiệc thánh làm cho ta cảm thấy được hạnh phúc hân hoan. Là Chúa, Chúa đã chẳng ở trên cao xa vời ta, nhưng hằng hiện diện trong bí tích Thánh Thể, trong bữa tiệc thánh hằng ngày khi linh mục dâng hiến lễ tạ ơn, Ngài hiện diện trong nhà chầu hằng giây hằng phút. Ta được thông dự vào tiệc thánh là thông phần vào chính sự sống của Chúa Giêsu, vào chính con người đầy tình yêu của Ngài.


Ta hãy sống xứng đáng để mỗi lần khi tham dự thánh lễ, ta được dự phần vào bữa tiệc thánh đầy hân hoan và đầy sự sống của Chúa. Trong niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng yêu thương và Đấng luôn bênh vực chở che ta, ta hãy vững bước hiên ngang và tin tưởng vào Thiên Chúa. Ước gì Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là nguồn lương thực linh thiêng cho mọi người chúng ta hằng ngày và nhất là suốt cả cuộc sống của đời chúng ta.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

HOC EST CORPUS MEUM
Mc 14, 12-16.22-26

Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị trong Năm Thánh Mân Côi (năm 2003) đã suy tư, chiêm niệm và dọn cho gia đình Giáo hội một bữa tiệc tinh thần thịnh soạn, đó là công bố mầu nhiệm Năm Sự Sáng, để từ đó, đời sống tinh thần của Giáo hội thêm phong phú nhờ hằng suy niệm những mầu nhiệm cực thánh này. Sở dĩ nói đến mầu nhiệm Mân Côi này là bởi vì trong đó, mầu nhiệm cuối nói đến việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể- mầu nhiệm Mình và Máu Chúa mà toàn thể Giáo hội mừng kính hôm nay. Chúng ta cùng nhau suy chiêm mầu nhiệm cực trọng này.

Chúng ta biết, Tin mừng Nhất lãm và thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô của Thánh Phaolô đều cho biết việc Chúa Kytô lập bí tích Thánh Thể trong bối cảnh trước lúc Chúa chịu khổ hình để vâng theo thánh ý Chúa Cha. Và vì thế, trình thuật về việc Chúa lập bí tích cực thánh này được các tác giả Tin mừng ghi lại rất xúc tích, được chia làm hai phần rõ ràng.


Trước hết, cũng như Mátthêu và Luca, Máccô biến bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các tông đồ trở nên một bữa Tiệc Vượt qua của chính Chúa. Đó chính là ý nghĩa của câu hỏi mà các tông đồ đã hỏi Thầy mình. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt qua ở đâu?". Chúng ta lưu ý từ "dọn cho Thầy". Bởi theo các nhà chú giải Kinh thánh, "dọn cho Thầy" cũng có nghĩa là ăn tiệc Vượt qua của Thầy hay chính Thầy là tiệc Vượt qua. Như thế, tác giả Tin mừng cho thấy, bữa tiệc này không chỉ đơn thuần là một bữa tiệc chia tay, mà còn bao hàm một ý nghĩa thánh thiêng, một ý nghĩa phượng tự.


Chúa Giêsu dường như "thấy trước" những gì xảy ra như Người đã chỉ cách tỉ mỉ cho các ông cách thức đi vào thành, gặp người mang vò nước như thế nào, rồi một ám hiệu để cho biết đích thực việc Chúa sẽ thực hiện. "Thầy nhắn : căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt qua với các môn đệ của tôi ở đâu?". Như đã nói ở trên, một bữa tiệc không đơn thuần là ăn với uống, mà còn bao hàm ý nghĩa tinh thần, vì thế việc chuẩn bị chu đáo cho bữa tiệc cực thánh này quả là điều cần thiết


Trong bữa tiệc đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu lặp lại hai cử chỉ đúng theo nghi thức của người Dothái để mở đầu và kết thúc bữa tiệc. Theo truyền thống, bữa tiệc được bắt đầu khi chủ nhà cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng: "Đây là chiếc bánh lầm than mà cha ông chúng ta đã phải ăn khi ra khỏi ai cập" (Đnl 16,3), rồi bẻ ra trao cho mọi người. Khi ăn miếng bánh này, dân Dothái cho rằng đó chính là quà tặng của Giavê Thiên Chúa dành cho họ. Họ đón nhận chúng trong tâm tình cảm tạ tri ân. Vào cuối bữa ăn, chủ tiệc cầm chén rượu thứ ba, nâng lên đọc lời chúc tụng, kêu mời mọi người tạ ơn theo nghi thức : "Nào ta hãy tạ ơn Chúa, Người đã nuôi dưỡng ta no thoả". Mọi người đáp : "Chúc tụng Đấng đã dùng sự phú túc nuôi dưỡng ta và dùng lòng nhân hậu làm cho ta được sống". Sau đó tất cả đồng thanh hát kinh "Chúc tụng" để tạ ơn vì Giavê đã thương đoái; đồng thời cầu nguyện cho sự thịnh vượng của thành thánh Giêrusalem. Rồi mọi người chia nhau uống chén rượu này.


Khi làm lại những nghi thức của dân tộc Dothái, Chúa Giêsu đã mặc cho nghi thức này một bộ mặt hoàn toàn mới, mang ý nghĩa linh thánh và đặt chúng trong tương quan với mầu nhiệm Phục sinh của Người. Ý nghĩa đó là gì?


"Này là Mình Thầy" (Hoc est corpus meum) và "Này là Máu Thầy" (Hoc est calix sanguinis mei), chính là mầu nhiệm của bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu muốn trao ban cho con người làm của ăn của uống. Đây còn là tặng phẩm Thần linh mà Chúa Cha ban tặng cho loài người để nhờ đó, con người được tham dự vào chính sự sống Thần linh với Thiên Chúa. Như thế, khi thiết lập bí tích Thánh Thể để qua đó, dân Chúa được hưởng dùng chính Mình và Máu Chúa Kytô, Thiên Chúa muốn quy tụ, mời gọi và đón nhận mỗi người chúng ta vào dự Tiệc với Người. Bữa tiệc đó rất cụ thể, rất sinh động và sinh muôn ơn ích. Bàn tiệc mà chúng ta tham dự không đơn thuần là một bữa tiệc thông thường, mà là một bữa Tiệc Sự Sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến kín múc nơi bàn tiệc Thánh Thể để toàn thể con người chúng ta qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kytô, chúng ta được hiệp thông cách trọn vẹn với Thiên Chúa, được sống chính đời sống Thần linh của Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể còn là một lời mời gọi chúng ta can đảm lên đường, đến với thế giới đang chia rẽ, đến với đồng loại đang đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn tù đày để liên kết, an ủi, nâng đỡ và cưu mang họ.


Tạ ơn Chúa đã ban tặng cho nhân loại bí tích cực thánh. Tuy nhiên, vì tầm quan trọng của việc lãnh nhận linh dược vô giá này, mà Giáo hội đòi buộc mọi tín hữu cần chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng, nếu không, hậu quả sẽ khôn lường. Điều này được thánh Phaolô ghi lại rất rõ ràng. "Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa... Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa là ăn và uống án phạt mình" (1 Cr 11, 27.29). Xin cho mỗi Kytô hữu ý thức điều trọng yếu này để không ngừng chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng và tinh tuyền để lãnh nhận cách xứng đáng Mình và Máu Chúa Kytô.

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

HÃY NHẬN LẤY MÀ SỐNG
Mc 14, 12-16.22-26

Theo một thống kê gần đây của viện Gallup thì đã có nhiều người Công giáo vẫn còn hoặc hoài nghi hoặc lẫn lộn về Chúa thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu sau lúc truyền phép và ngay cả khi lên rước lễ.

Sự hoài nghi cũng chẳng là điều gì phải ngạc nhiên nhiều cho lắm. Thực thế, cách đây hơn 900 năm, một linh mục trẻ tên là Berengarius đã phủ nhận bánh ruợu đã trở thành Mình Máu Thánh Chúa sau khi truyền phép nói rằng sự thay đổi chỉ xảy ra trong tâm trí của con người mà thôi.


Nếu có những người cố tình phủ nhận thì cũng có rất nhiều người cổ động việc sùng kính mầu nhiệm rất cao cả này. Thánh Anthony thành Pađua mà Giáo Hội kính nhớ vào ngày 13/6 mỗi năm là một trong những vị thánh có lòng tin mãnh liệt vào Thánh Thể Chúa.


Chuyện kể rằng có một ông phú hộ kia thách thức bằng cách để một con lừa bị bỏ đói lâu ngày trước một bó rơm và xin Thánh nhân để Thánh Thể Chúa cạnh bên. Con lừa vội chạy ngay lại bó rơm ngửi ngửi rồi kinh ngạc làm sao, sụp bốn chân đầu cúi xuống trước hào quang Thánh Thể Chúa. Chuyện nghe có vẻ buồn cười và khó tin, nhưng như thánh Louis de Monfort nói "khi nghe chuyện về các thánh, hãy tin" vì không có gì là không thể với Thiên Chúa.


Lòng tôn sùng Thánh Thể Chúa đuợc thể hiện một cách cụ thể sống động qua không ai khác hơn là Mẹ Maria. Năm 1800, Mẹ đã hiện ra cùng Thánh Peter Julian Eymard -vị Thánh với biệt danh là Tông Đồ Thánh Thể vì lòng đặc biệt yêu kính Thánh Thể và truyền cho Thánh nhân thành lập một hội dòng chỉ để tôn sùng Thánh Thể Chúa. Đến tháng 5 năm 1856, đuợc sự hổ trợ của Đức Cố Giáo Hoàng Piô thứ 9, Thánh nhân đã thành lập Dòng Thánh Thể để cổ động việc tồn sùng Thánh Thể Chúa trên toàn thế giới.


Nếu những người phàm trần như Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Thánh Thể và Thánh Peter Julian Eyward là Tông Đồ Thánh Thể thì mỗi chúng ta cũng đuợc kêu mời trở thành chứng nhân Thánh Thể Chúa.


Khi Mẹ thốt lên hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ đã trở thành nhà tạm đầu tiên của Thiên Chúa. Cũng thế, mỗi khi "ăn bánh và uống chén này", chúng ta phải trở thành nhà tạm Thánh Thể Chúa, nghĩa là chúng ta phải cùng chết với Đức Kitô để có thể đuợc sống lại vinh hiển với Người. Chữ 'Amen' phải thưa khi rước lễ có ý nghĩa là chúng ta tin tấm bánh kia chính là Mình Thánh và giọt rượu kia chính là Máu Thánh Chúa. Vì thế, ngoài việc bày tỏ thái độ tuyệt đối tôn kính nghiêm trang khi lên ruớc lễ, chúng ta phải luôn tự nhắc nhở rằng khi Thiên Chúa đã trở thành hy lễ thì mỗi chúng ta cũng phải trở nên của lễ hiến tế cho Người. Và cho tha nhân.


Nói một cách khác, trong Cựu Ước chiên bò là của lễ hy tế nhưng trong Tân Ước chính chúng ta là hy lễ tiến dâng. Thánh Lễ không phải chỉ là Nghi Thức tưởng nhớ Con Chúa chịu chết trên đồi Núi Sọ hơn hai ngàn năm trước mà chính là dâng hiến hồn xác chúng ta, như lời một bài ca "Hồn con đây với xác con đây, đền vì bao tội lỗi xưa nay."

Lm Nguyễn Khoa Toàn

Lễ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
Mc.14: 12-16, 22-26

Chúa Nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Đây là lễ rất quan trọng, vì nó diễn tả sự hiểu biết và niềm tin của Kitô hữu vào Đức Giêsu Kitô.

1. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến tuyệt vời


Khi Thiên Chúa đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập, dân đã phải đi trong hoang địa bốn mươi năm trường. Giữa chốn hoang vu như vậy và không canh tác, làm sao dân có lương thực để ăn? Thiên Chúa đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân. Đây là một điều rất lạ lùng trong lịch sử loài người. Dân Do Thái đã tưởng rằng Môsê là người đã cho dân Manna, nhưng Đức Giêsu đã đính chính: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi đã cho các ông ăn bánh bởi trời..." (Ga.6: 32).


Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, cũng là bữa tiệc Đức Giêsu và các môn đệ làm theo truyền thống Do Thái tưởng niêm lễ Vượt Qua, Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị trao nộp vì anh em;" cũng tương tự vậy, Ngài cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà uống, này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra vì anh em" (Mc.14: 23-24).


Bí tích Thánh Thể là sáng kiến tuyệt vời của Đức Giêsu. Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, cho thấy Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết, điều mà hôm sau như thể Đức Giêsu không thể nào trốn thoát được. Đức Giêsu như tấm bánh được bẻ ra nuôi sống nhiều người. Đức Giêsu là lương thực, là sự sống cho con người. "Ai không ăn bánh này, sẽ không có sự sống nơi mình" (Ga.6: 53).


2. Bí tích Thánh Thể hàm chứa một mặc khải sâu xa


"Làm sao một người lại có thể lấy máu thịt mình nuôi sống chúng ta?" (Ga.6: 52). Người ta dùng cơm bánh để sống chứ không ai ăn thịt uống máu người khác để sống. Quả thực lời nói của Đức Giêsu thật "khó nghe" đối với không chỉ con người đương thời nhưng cả với con người của mọi thời đại. Đứng trước người phát biểu lời này, người ta sẽ nghĩ, hoặc đây là một người điên, hoặc đây là một người rất đặc biệt.


Đứng trước lời nói "sống sượng" của Đức Giêsu, một số đông dân chúng đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa. Cả một số môn đệ xưa nay đi theo Ngài, cũng bỏ Ngài: "Lời chi mà sống sượng thế, ai nghe cho nổi" (Ga.6: 60). Đức Giêsu cũng nhận ra điều đó; Ngài hỏi nhóm mười hai: "còn các anh, các anh có muốn bỏ đi không?" (Ga.6: 67); và Phêrô đã có một câu trả lời rất đặc biệt: "bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, Thầy có lời ban sự sống đời đời" (Ga.6: 68). Thật sự, không thể ngờ rằng Phêrô có câu trả lời rất đặc biệt như vậy. Không có ơn từ trên, Phêrô không thể có câu trả lời như vậy. Không có ơn từ trên, người ta không thể tin bí tích Thánh Thể được.


Làm sao một người lại có thể là lương thực nuôi sống người khác? Nếu không phải là người bị khùng điên, thì hẳn phải là một người rất đặc biệt. Người này phải có một nguồn gốc thần linh. Những người chấp nhận lời nói này của Đức Giêsu, phải là người được ơn như Phêrô và các môn đệ, nhận ra nguồn gốc siêu vượt của Đức Giêsu. Nếu chỉ là phàm nhân, thì không thể lấy thịt máu mình nuôi sống người khác. Đức Giêsu là người thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể.


3. Bí tích Thánh Thể quy tụ và phát triển Giáo Hội Chúa Kitô


Ngày xưa người Do Thái đã có thói quen tụ họp nhau vào ngày sabbát để nghe đọc Lời Chúa. Chính thánh Phaolô cũng dùng những dịp người Do Thái gặp nhau này để rao giảng Đức Yêsu phục sinh cho người Do Thái. Với niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh, Kitô hữu tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa và cử hành nghi thức bẻ bánh: "Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán..." (Mc.14: 22). Kitô hữu không chỉ tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, mà còn để ăn thịt và uống máu Chúa, để có sự sống đời đời.


Ngày xưa khi nghệ thuật in ấn chưa phổ biến, việc tụ họp nhau để nghe Lời Chúa và được nghe giải thích Lời Chúa là chuyện cần thiết. Ngày nay, với phương tiện hiện đại người ta có thể có sách Lời Chúa để đọc hằng ngày, được nghe diễn giải Lời Chúa bất cứ lúc nào người đó muốn, nên nếu chỉ để nghe Lời Chúa, thì người ta không cần đến với nhau nữa. Tuy nhiên, Kitô hữu vẫn tiếp tục tụ họp nhau, không chỉ để nghe Lời Chúa nhưng còn để tham dự nghi thức bẻ bánh, để tham dự bí tích Thánh Thể.


Hiểu như trên, người ta nhận ra nét đặc biệt của giáo huấn về bí tích tư tế thừa tác nơi Hội Thánh Công Giáo. Bí tích Thánh Thể qua thừa tác viên tư tế mang tính xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô. Không phải tất cả mọi người đều có thể cử hành bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, nhưng là biểu tượng, là dấu chỉ thực, vừa là dấu chỉ vừa là thực tại, là chính mình máu Đức Kitô. Chức vụ tư tế phổ quát, tư tế vương giả của mọi Kitô hữu, giúp Kitô hữu tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Niềm tin vào bí tích Thánh Thể diễn tả sự hiểu biết sâu xa của Kitô hữu về chính Đức Giêsu, đồng thời củng cố nuôi dưỡng Hội Thánh. Đức Giêsu không chỉ là con người, nhưng còn là Thiên Chúa nhập thể. Chính Thiên Chúa xây dựng và củng cố Hội Thánh của Ngài qua bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu Kitô củng cố và nuôi dưỡng Hội Thánh Chúa mỗi ngày.

LM  Phạm Thanh Liêm, SJ

HIỆN DIỆN - HIỆP NHẤT - CHIA SẺ
Mc.14,12-16.22-26

Trong ý nghĩa yêu thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để lại cho loài người một vật kỷ niệm. Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ : một cuốn sách, một khăn tay, một tấm hình, một cái áo, một chiếc nhẫn V.v...Đối với Chúa Giêsu, những vật đó hay bất cứ vật nào cũng đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương nồng nhiệt của Chúa đối với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Chúa.

Nhưng bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa đã thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân Chúa dưới hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu biến đổi thành Mình và Máu Ngài : "Này là Mình Thầy", "Này là chén Máu Thầy". Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ : "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy", tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quý này để tưởng niệm đến Ngài.


Như thế, trong bữa tiệc ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu : "Này là Mình Thầy", "Nầy là chén Máu Thầy', tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người.


Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực : một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.


Như vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh và hình rượu, Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian.


Thánh Thể còn là bí tích của sự hiệp nhất. Trước hết, Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta dưới hình bánh hình rượu, làm cho chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài. Đồng thời, khi kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, thì Thánh thể cũng kết hiệp chúng ta với nhau : được qui tụ chung quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một chén, chia sẻ cùng một của ăn, chúng ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình thương, chúng ta càng hiệp nhất với nhau còn hơn là con cái của một gia đình.


Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ : bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.


Tóm lại, về Phép Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ : Thánh Thể là một bí tích. Trong Thánh Thể, có Chúa Giêsu thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép, không còn bánh và rượu trên bàn thờ nữa. Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ. Mỗi lần dâng thánh lễ là chúng ta cử hành việc Chúa lập phép Thánh Thể. Đàng khác, chúng ta hãy cố gắng rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô và hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh cũng như nghị lực cho chúng ta trên đường lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống đời đời của chúng ta. Như thế, bàn tiệc Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đó, chúng ta được nối kết với Chúa Kitô và nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

TÌNH YÊU TUYỆT VỜI
Mc 14,12-16.22-26

Chúa Giêsu đã nói một câu tuyệt diệu bằng chính cả cuộc đời của Ngài: " Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu đã đi tới cái tận cùng của việc hiến dâng là cái chết. Tình yêu hoàn toàn tự hiến của Ngài đã nói lên sự quảng đại vô bờ của Ngài: " chết mới diễn tả mọi sự, chết mới thốt lên lời". Chúa chết để cứu chuộc loài người, cứu độ con người. Ngài chết nhưng Ngài vẫn sống, Ngài chết để trao ban chính Thịt Máu của Ngài để nuôi sống nhân loại.

Trong lễ Vượt Qua lần cuối này, thực sự các môn đệ, những người thân cận của Chúa đã không ngờ được Thầy của họ đã làm một cử chỉ không bao giờ họ có thể ngờ và chưa hiểu ngay được.Chúa Giêsu đã tiên liệu nơi ăn lễ Vượt Qua: một phòng rộng rãi trên lầu của một gia đình mà Phêrô và Gioan đã vâng lời Chúa mượn được.Các môn đệ chỉ phải lo lễ vật để dùng trong bữa tiệc: bánh không men, rượu, chiên và rau diếp đắng. Các mộn đệ không hề biết Chúa sẽ làm gì trong bữa tiệc ly này. Nhưng chỉ mình Chúa biết việc gì Ngài sẽ làm trong lễ Vượt qua này. Bởi vì các môn đệ cũng đã từng ăn lễ Vượt Qua với Chúa. Tuy nhiên bánh và rượu những lần trước chỉ là bánh rượu bình thường. Còn trong bữa tiệc hôm nay, các môn đệ không thể ngờ và không bao giờ ngờ khi Chúa cầm lấy bánh tạ ơn Thiên Chúa Cha, bẻ ra vào trao cho các ông và nói: "
Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy ".

Ngài còn trao rượu cho các ông mà nói: "
Đây là Máu thầy, Máu giao ước mới, đổ ra vì nhiều người ". Như thế, chính giờ phút này, chính lúc nói lời này: bánh và rượu đã được biến đổi tận căn để trở thành Mình và Máu Chúa Giêsu. Các môn đệ ăn bánh và uống rượu để thông hiệp, trở nên một với cái chết của Thầy trên thập giá. Và cũng ngay ngày hôm sau, trên núi Sọ, máu của Chúa đã đổ ra, và thân xác của Chúa bị tàn tạ, nát tan. Ngài bị đóng đinh trên thập giá giữa giữa hai tên trộm cướp. Hy lễ núi Canvê chỉ diễn ra một lần nhưng bao trùm mãi mãi dòng lịch sử nhân loại, và bữa tiệc cuối cùng của Chúa chỉ diễn ra một lần nhưng Ngài muốn nó được lập đi lập lại mọi ngày cho tới tận thế: " Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy " ( Lc 22, 19 ).

Từ giây phút ăn lễ Vượt Qua cuối cùng với các môn đệ, Chúa đã thiết lập Bí tích linh mục thừa tác và thiết lập Bí tích Thánh Thể. Do đó, mỗi thánh lễ là cuộc tái diễn lại bữa tiệc ly và mỗi thánh lễ là một hy tế thập giá. Cái chết của Chúa trên thập giá khi xưa để cứu độ con người nay thành hiện tại để đem lại sự sống mới cho con người mọi nơi mọi lúc. Mỗi lần chúng ta lãnh nhận Mình Máu Chúa là chúng ta gặp gỡ chính Đấng đã hy sinh chịu chết vì chúng ta, là chúng ta được kết hợp với Đấng đã yêu thương chúng ta đến cùng.Rước Chúa có nghĩa là chúng ta được mời gọi chia sẻ, thông phần, bẻ ra và hiến trao như Đấng chúng ta lãnh nhận. Chính vì thế, chúng ta không còn khép kín, ích kỷ chỉ nghĩ đến ta mà phải sống như Đấng đã hy sinh vì chúng ta. Bao lâu chưa đến ngày cùng tận, bấy lâu thánh lễ vẫn còn nối tiếp trong dòng đời, trong lịch sử nhân loại.

Để lại cho nhân loại chính Mình và Máu Chúa, Chúa Giêsu muốn nói lên tình yêu vô biên của mình đối với nhân loại, đối với mọi người, đối với từng người. Thánh Thể là Bí tích tình yêu, là trung tâm đời sống của Kitô hữu, là lương thực thiêng liêng nuôi sống người tín hữu, là món quà tuyệt vời Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, ban cho từng người. Đây là Bí tích bảo đảm sự sống trường sinh cho con người, là quà tặng không tiền khoáng hậu Thiên Chúa ban cho thế giới. Bí Tích Thánh Thể vượt quá trí khôn, trí hiểu của con người. Chúa Giêsu trước khi chết đã vì yêu con người nên đã cho đi, cho cả sinh mạng, cuộc sống của Ngài cho nhân loại, cho mỗi người.

Khi lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô, chúng ta hãy ý thức sâu xa: đây chính là Đức Kitô đã sinh ra nơi Bêlem, đã lớn lên và sinh sống ở Nagiarét, đã rao giảng khắp nơi. Đây là Đức Kitô đã bị kết án, đã bị treo trên thập giá và đã phục sinh, đã lên trời và đã cho Chúa Thánh Thần xuống. Chúng ta sẽ không thể nào tưởng tượng nổi điều kỳ diệu ấy nhưng nhờ đức tin chúng ta hiểu đúng là như thế.


Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn yêu mến Thánh Thể và siêng năng rước Chúa vào lòng như bảo đảm cho sự sống đời đời của chúng con
. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

THÁNH THỂ: NGUỒN CỨU ĐỘ
Mc 14, 12-16.22-26

Máu: biểu hiện của sự sống ! Con người sẽ chết nếu không còn máu trong người. Vào các cơ sở y tế để khám chữa bệnh. Điều đầu tiên các y bác sĩ cho bệnh nhân làm đó là xét nghiệm máu. Qua các chỉ số về máu, các y bác sĩ sẽ tìm biểu đồ, tìm cách điều trị một cách tốt nhất cho bệnh nhân. Như vậy, chúng ta thấy máu đóng một vai trò mang tính "sống còn" trong đời sống con người. Nhờ có máu mà con người được sống, nếu không có máu, con người sẽ phải chết.

Là người bình thường, rất cần máu. Riêng những ai mang danh mình là Kitô hữu, không chỉ cần máu bình thường như mọi người nhưng cần và cần lắm máu cứu độ mà chính Chúa Kitô đã đổ ra để cứu những con người tội lỗi.


Dừng lại một chút để đọc lại, suy gẫm lại những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy máu là chủ đề xuyên suốt từ đầu đến cuối. Chính nhờ máu đã mang lại sự sống, đã cứu độ con người. Cách riêng trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã nói rõ cho các môn đệ rằng máu Chúa sẽ đổ ra để nuôi sống con người. Ở Cựu Ước, Thánh Thể như là hình bóng đã được tiên báo cho Máu của Chúa Giêsu ở Tân Ước phải đổ ra để cứu chuộc con người.


Những hình bóng chính yếu về Máu của Chúa Kitô trong Cựu ước là Chiên vượt qua (Xh 24,8), và máu xá tội mà thầy thượng tế đưa vào gian cực thánh trong ngày lễ xá tội (x Lv 16, 14), Tất cả những hình bóng này không bị mất đi tầm quan trọng khi Chúa Giêsu đổ máu thật sự trên thập giá vì khi thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cùng gợi lại ba hình bóng trên, qua những từ ngữ được Ngài sử dụng như "tưởng nhớ" (Xh 12,14); "Máu giao ước mới" và "được tha tội". Điều này được các hình bóng giúp mô tả, giải thích và làm nổi bật tính ưu việt tuyệt đối của bí tích Thánh Thể so với những hình bóng tiên trưng.


Trong Cựu ước, "Máu" đóng một vai trò quan trọng vì nó được coi là nguyên lý sự sống; "Sinh khí thân xác tụ trong huyết (Lv 17,11)" "Huyết, tức là sự sống" (Đnl 12, 23). Do đó ngày xưa Môsê đã lấy mà đóng ấn giao ước Đức Giavê muốn ký với dân (Xh 24, 3-8). Người ta đã sát tế những con bò mộng tơ, lấy máu rưới lên bàn thờ một phần, một phần rảy trên dân, chứng tỏ rằng Giao ước đã được thiết lập cách long trọng. Đây là hình bóng của Giao ước mới mà sau này chính Đức Kitô đã lâp Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại bằng chính máu mình. Không phải như Môisen khi làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, đã phải nhờ đến việc sát tế các con vật. Chính Máu của Đức Kitô đổ ra trên núi Sọ, Ngài sẽ không ngừng dâng lại trong hy tế thánh lễ để không ngừng tái diễn Giao ước của Ngài.


Trong nghi lễ Do thái, bữa ăn chiên vượt qua không phải chỉ có một tầm quan trọng hàng đầu, mà nó còn có một ý nghĩa nổi bật là tưởng nhớ một biến cố lịch sử, biến cố Thiên Chúa Giavê cứu độ dân Do thái. Ngài đã ra tay giải thoát dân Ngài khỏi ách Ai cập. Vì thế bữa ăn vượt qua có một giá trị rõ ràng do sự kiện lịch sử, mà nó có nhiệm vụ gợi lại cho người ta nhớ những điều vĩ đại mà Thiên Chúa đã làm cho họ, con chiên vượt qua nhắc lại con vật mà máu nó đã gìn giữ các nhà dân Israel xưa, khi mà máu của nó được bôi trên thành cửa làm dấu để sứ Thần Chúa "Vượt Qua" mà tha cho dân. Trong khi ăn bữa này, người ta cảm tạ Chúa vì những ơn lộc vô biên của cuộc giải thoát ấy. Nên bữa ăn này là hình bóng của bữa tiệc Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong bữa tiệc ly.


Để lập phép Thánh Thể và chuẩn bị cho giao ước mà Chúa Giêsu thiết lập giữa Thiên Chúa và loài người bằng chính giá máu của Ngài khi Ngài bị người ta đóng đinh trên thập giá. Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn vượt qua, và lễ vượt qua "cuối cùng" này đã được chuẩn bị một cách chu đáo. Điều này các tin mừng đã thuật lại cho ta biết các môn đệ "đã chuẩn bị lễ vượt qua" như thế nào, theo các chỉ dẫn của Chúa Giêsu đã dạy (Mt 26, 17-19; Mc 14, 12-16; Lc 22, 7-13). Đặc biệt Thánh Luca còn nhắc lại Lời của Chúa Giêsu "Thầy ước ao ăn lễ vượt qua này với anh em trước khi Thầy chịu khổ nạn..." (Lc 22, 15). Qua đó Đức Kitô muốn cho ta hiểu Ngài chính là con chiên vượt qua thật, con chiên lấy máu mình để cứu độ nhân loại. Mặc dù, trong trình thuật về bữa tiệc ly, ta không thấy ám chỉ gì về con chiên, nhưng đối với các môn đệ thì biểu tượng ấy khá rõ vì việc truyền phép rượu đi liền sau khi ăn thịt chiên. Với việc truyền phép làm hai nhịp như thế, phép Thánh Thể đã bao gồm con chiên vượt qua vào trong đó, và nếu con chiên này không được nhắc đến cũng chỉ vì nó thuần túy là một hình bóng mà từ đây sẽ phải tự xóa mình đi trước thực tại: chỉ có một thực tại phải kể đến, đó là Mình và Máu Đức Kitô, "Máu sẽ đổ ra cho muôn người" cũng như xưa máu con chiên đã đổ ra để cứu các nhà dân Israel. Do đó Thánh Thể là thực tại thay thế cho hình bóng con chiên vượt qua, như lời Thánh Phaolô: "Đức Kitô, chiên vượt qua của chúng ta, đã chịu sát tế" (1 Cr 5, 7).


Sách xuất hành đã ghi lại những qui định của luật lệ về việc ăn lễ Vượt qua nhắc nhở giao ước Giavê đã ký kết với dân Do thái, cũng như việc chuẩn bị lễ như nghi thức, chọn chiên tế lễ phải vẹn toàn, không được đánh đập nó bể xương...(Xh 12, 5-47). Đây là hình bóng giao ước mới mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập bằng chính Máu Người. Truyền thống Kitô giáo vẫn thấy hình bóng "con chiên tinh tuyền không bị gãy xương" (Xh 12.47) là chính Chúa Giêsu, chiên tinh tuyền của Đức Chúa Cha. Vì loài người tội lỗi không thể dâng lên Thiên Chúa của lễ vô tỳ tích, nên Chúa Cha đã lập ra hy tế bằng chính Con một của Người nhập thể. Do đó, chỉ có Đức Kitô có thể dâng lên Chúa Cha một hy tế Thánh thiện, vẹn toàn, là con chiên tinh tuyền. Con chiên ấy đã gánh tội trần gian và tự hiến để hủy diệt tội lỗi cho nhân loại, và con chiên này cũng không bị người ta đập gãy xương (Ga 19, 46).


Trong các lời tiên tri của Isaia nói về người tôi tớ Đức Chúa (Is 42,1-9; 49, 1-6; 50, 4-11; 50, 113-53) là người công chính, bị đè bẹp, bị nghiền nát dưới sự đau khổ vì tội lỗi của anh em mình, và được Thiên Chúa tôn vinh, là hình bóng báo hiệu Chúa Giêsu "người tôi tớ thánh thiện" (Cv 4, 27-30; 3, 26) đã chịu nhiều đau khổ, bị bắt bớ, chịu nhục hình, cuối cùng chịu sát tế trên thập giá để thiết lập giao ước cho nhân loại khỏi tội, và Người đã được tôn vinh làm Chúa với quyền năng bởi sự phục sinh từ cõi chết (Rm 1,4)


Chính Thịt và Máu của Đức Giêsu đã làm nên Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể chính là Bí Tích mang Ơn Cứu độ cho toàn thể nhân loại chúng ta. Ơn cứu độ đó đã được Thiên Chúa Cha hứa ban ngay sau khi nguyên tổ phạm tội. Bí tích Thánh Thể là bí tích của ơn cứu độ, ơn cứu độ phổ quát. Mỗi bí tích Thánh Thể (Thánh Lễ) được cử hành, dù ở bất cứ nơi đâu, dù long trọng với sự hiện diện đông đảo của nhiều người hay chỉ âm thầm lặng lẽ của cá nhân vị linh mục, bí tích Thánh Thể vẫn được cử hành, theo một nghĩa nào đó, trên bàn thờ của thế giới. Bí tích Thánh Thể là một mối dây nối kết trời và đất. Nó bao gồm và thấm nhập toàn thể thụ tạo. Con Thiên Chúa đã làm người để hoàn lại toàn thể thụ tạo cho Đấng đã kéo nó ra từ hư vô, trong một hành động chúc tụng tuyệt vời. Chính vì thế mà Ngài, Linh mục thượng phẩm đời đời, khi bước vào cung thánh vĩnh cửu nhờ máu đổ ra trên thập giá, Ngài đã hoàn lại cho Đấng Tạo Thành và là Cha toàn thể thụ tạo được cứu chuộc. Ngài thực hiện điều đó nhờ tác vụ linh mục của Giáo Hội, để tôn vinh Chúa Ba Ngôi chí thánh. Chính thực đó mới là mầu nhiệm đức tin được thực hiện trong bí tích Thánh Thể: thế gian thoát thai từ tay Thiên Chúa Tạo Thành, trở về với Ngài sau khi đã được Chúa Kitô chuộc lại.


Trong Thánh Lễ, mỗi khi chúng ta rước lễ, Hy Tế Thánh Thể tự nó hướng các tín hữu tới việc hiệp nhất thâm sâu với chúa Kitô. Qua việc rước lễ, chúng ta nhận lấy chính Ngài, Đấng đã tự hiến cho chúng ta, chúng ta nhận lấy thân mình Ngài, thân mình mà Ngài đã nộp vì chúng ta trên Thập Giá, máu mà Ngài đã đổ ra là để trở thành máu của Giao Ước mới, có mục đích rất rõ ràng là để cho nhiều người được tha tội (Mt 26, 28). Việc hiệp nhất thâm sâu với Đức Kitô qua việc rước lễ ban cho chúng ta sự sống, sự sống đời đời (Ga 6,57). Thánh Thể đích thực còn là một bữa tiệc, tiệc hiệp thông, hiệp thông giữa người rước lễ với chính Đức Kitô và qua Đức Kitô, với Thiên Chúa Ba Ngôi và với anh chị em mình. Trong bữa tiệc hiệp thông đó, Chúa Kitô tự hiến làm của ăn. Đây không phải là của ăn tượng trưng nhưng "Thịt tôi là của ăn thật, và máu tôi là của uống thật" (Ga 6,55).


Nhớ đến lời dẫn nhập vào Thánh Lễ của một Cha giáo: "Anh chị em thân mến ! Mỗi một lần chúng ta tham dự Thánh Lễ là mỗi một lần chúng ta biến đổi cuộc đời chúng ta nên một như Đức Kitô. Nếu sau khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta không thay đổi cuộc đời chúng ta thì Thánh Lễ chúng ta tham dự thành ra vô ích. Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đang có mặt ở đây với Ta ...". Lời ấy, nếu nghe qua qua thì thấy chẳng có gì và nghe nhiều đôi khi người nghe sẽ nói: "biết rồi ! khổ lắm nói mãi".


Vâng ! "Biết rồi, khổ lắm nói mãi" nhưng hình như nghe cho qua lần qua lượt chứ không để những lời ấy thấm vào cuộc đời ta. Nếu như ta ý thức thật, Chúa đã đổ máu mình ra để cứu độ ta mà ta không cảm, không nhận và không biến đổi đời ta qua máu cứu độ của Ngài thì quả thật cuộc đời ta chán thật !


Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể mở lòng chúng ta để chúng ta mau mắn đến và gặp Ngài nơi Bí Tích Thánh Thể.


Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể là của ăn đích thực, là nguồn sống đích thực đến và ở lại trên cuộc đời mỗi người chúng ta để chúng ta có sức để tiếp tục đi theo Ngài trên con đường lữ thứ trần gian đầy gian nan và thử thách này.

Anmai, CSsR (Nguồn vietcatholic.org)

4256    08-06-2012 21:22:08